Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh (1 Tx 4,3).
Trong ngày thành hôn, đôi tân hôn nào cũng được cầu chúc: “Trăm
năm hạnh phúc”. Một gia đình hạnh phúc, theo truyền thống văn hoá Việt Nam, là
một gia đình “trên thuận dưới hoà, con cái hiếu thảo, vợ chồng yêu thương
nhau”. Tuy nhiên, đối với
người Kitô hữu, một gia đình hạnh phúc còn phải là một gia đình có Chúa Giêsu ở
cùng, bởi vì Ngài chính là tình yêu nối kết tất cả gia đình.
“Ơn Đức Giêsu Kitô ban khi cử hành bí tích Hôn phối không bị múc
cạn, nhưng vẫn theo sát đôi bạn trong suốt cả đời sống. Công đồng Vaticanô II
nhắc lại điều ấy khi nói rằng Đức Giêsu Kitô “còn ở lại với họ để hai vợ chồng
cũng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Ngài đã
yêu thương Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh...” Khi chu toàn sứ mạng hôn
nhân và gia đình của họ với sức mạnh của bí tích này, họ được đổ tràn tinh thần
của Đức Kitô, nhờ đó tất cả đời sống của họ thấm nhuần đức tin, đức cậy, đức
mến và càng ngày họ càng tiến tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh
hoá lẫn nhau; và bởi đó, họ cùng nhau góp phần tôn vinh Thiên Chúa[1]“.
Như vậy, nhờ Bí tích Hôn phối, đôi vợ chồng Kitô hữu nhận được
những ơn riêng để sống ơn gọi hôn nhân và gia đình. Những ơn đó giúp họ cùng
nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc, đồng thời cũng giúp họ nên thánh trong
đời sống hôn nhân và gia đình.
1. Mọi Kitô hữu
được mời gọi nên thánh
1.1. Bổn phận nên thánh
Khi chịu phép Rửa tội, người tín hữu không những được rửa sạch mọi
tội lỗi mà còn trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên
Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi
thể Đức Kitô (x. 1 Cr 6,15; 12,27) và thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr
6,19)[2].
Nói cách khác, nhờ phép Rửa, người Kitô hữu đã chết đối với tội lỗi để sống một
cuộc sống mới. Đó là cuộc sống làm con cái Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô[3],
dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần[4].
Bởi vậy, mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh: “Anh em hãy sống thánh thiện
trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh
Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15-16).
Việc nên thánh không phải
chỉ dành riêng cho các linh mục và tu sĩ mà còn dành cho mọi tín hữu. Thánh Phanxicô
Salêsiô nói: “Mọi giáo dân đều được mời gọi nên thánh và họ có thể nên thánh
như là chồng, là vợ, như là nông dân, là công nhân, là lính, là thương gia, y
sĩ, thầy giáo, nghĩa là theo đủ mọi ngành nghề và hoàn cảnh trong xã hội”. Công
đồng Vaticanô II nhắc lại: “Tất cả các Kitô hữu, bất kể thuộc bậc sống hay địa
vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự
trọn lành của Đức Ái[5]“.
“Đạt tới viên mãn của đời sống Kitô giáo và sự trọn lành của Đức Ái”, đó chính
là nên thánh[6].
Cha
xứ giải thích:
Ý định của Thiên Chúa muốn
chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện trong hoàn cảnh cụ thể đời sống của
chúng ta. Thánh thiện như là đích điểm của đời Kitô hữu nhưng mỗi người đến với
đích ấy bằng lối đi của mình và tình yêu Chúa Kitô phải là ánh sáng soi lối cho
hành trình của họ. Trong ngày lãnh Bí tích Thánh Tẩy, tư cách con Thiên Chúa và
sự thánh thiện chỉ được ví như hạt giống. Nó phải được làm cho lớn lên mỗi ngày
qua cuộc sống bác ái của mỗi người chúng ta.
1.2. Linh đạo: con đường nên thánh
Trong Hội Thánh, có nhiều bậc sống khác nhau, nên cũng có nhiều
con đường nên thánh khác nhau tuỳ theo mỗi bậc sống. Linh mục, tu sĩ có cách nên thánh của linh mục, tu sĩ. Giáo dân cũng
có cách nên thánh riêng của mình. Con đường nên thánh dành cho mỗi bậc sống như
vậy được gọi là linh đạo.
Con đường này do Chúa Thánh Thần khơi dậy, để giúp người tín hữu bước theo Đức
Kitô và đạt tới đức ái trọn hảo theo bậc sống của mình.
Từ xưa cho tới nay, Chúa Thánh Thần đã khơi dậy rất nhiều linh đạo
khác nhau trong Hội Thánh. Chẳng hạn linh đạo Augustinô, linh đạo Bênêđictô,
linh đạo Camêlô, linh đạo Phanxicô, linh đạo Đaminh, linh đạo Inhaxiô, linh đạo
Anphongxô, linh đạo Salêdiêng... Tất cả tạo nên sự phong phú và đa dạng trong
Hội Thánh, để giúp cho từng người tìm được con đường nên thánh phù hợp với khả
năng, hoàn cảnh và bậc sống của mình.
Cha
xứ giải thích:
Người sống đời hôn nhân một
khi chọn con đường linh đạo không phù hợp không những không họ thực hiện được
mà còn có nguy cơ khiến cho cuộc hôn nhân của họ có nguy cơ đổ vỡ. Không ít
người vợ, người chồng dấn thân quá sâu vào những hiệp hội này hay đoàn thể khác
đến độ bỏ quên vai trò làm vợ làm mẹ trong đời sống gia đình. Xung đột có nguy
cơ bùng nổ khi người này bắt người kia phải đi theo linh đạo của mình. Ví dụ,
người vợ hay người chồng muốn người bạn của mình phải sống ơn gọi theo cách của
mình (đi tham dự thánh lễ hàng ngày,
xưng tội hàng tháng, tĩnh tâm, tham dự hội đoàn…) trong khi cuộc sống của họ là
một phản chứng với đức tin.
2. Linh đạo Hôn
nhân và Gia đình
Đối với các đôi vợ chồng, Công đồng Vaticanô II nói: “Nhờ sức
thiêng của bí tích Hôn phối, các đôi vợ chồng Kitô hữu biểu hiện và tham dự vào
mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Đức Kitô và Hội Thánh[7];
họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục
con cái; nhờ đó, họ nhận được những ơn riêng cho bậc sống của mình trong Dân
Chúa. Được ban cho những phương tiện cứu rỗi dồi dào như thế, mọi Kitô hữu, dù
ở địa vị nào, bậc sống nào cũng, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành
thánh thiện như Chúa Cha là Đấng trọn lành, tuỳ theo con đường của mỗi người[8].
Trong Tông huấn Gia đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc lại:
“Ơn gọi mọi người nên thánh cũng được ngỏ với các vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu.
Đối với họ, ơn gọi này được nêu bật trong việc cử hành bí tích Hôn phối và được
thực hiện cách cụ thể trong thực tế riêng của cuộc sống hôn nhân và gia đình. Chính
cuộc sống này làm nẩy sinh ra ân sủng và đòi hỏi phải có một linh đạo đích thực
và sâu xa cho đời sống hôn nhân và gia đình. Linh đạo này được gợi hứng từ các
chủ đề về sáng tạo, giao ước, thập giá, phục sinh và dấu hiệu bí tích[9]“.
Nếu linh đạo hôn nhân và gia đình cốt tại Tình yêu, “yêu
như Thiên Chúa yêu” và được gọi hứng từ các chủ đề về Sáng tạo, Giao
ước, Thập giá, Phục sinh và dấu hiệu bí tích, ta có thể diễn tả những nét chính
của linh đạo hôn nhân và gia đình như sau:
2.1. Tình yêu sáng tạo
Vì yêu thương, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ và muốn cho con người
được làm con của Ngài, sống hạnh phúc với Ngài mãi mãi[10].
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ, để yêu thương, chia sẻ, bổ túc
nhau, đồng thời làm chủ những gì Chúa đã dựng nên. Vì thế, Ngài đã truyền cho
họ: “Hãy sinh sản cho đầy mặt đất”(St 1,28).
Qua bí tích Hôn phối, đôi bạn được mời gọi cộng tác vào công trình
sáng tạo của Thiên Chúa bằng việc sẵn sàng đón nhận con cái và giáo dục chúng
nên người, tạo nên một tổ ấm phục vụ cho sự sống. Mỗi lần trao cho nhau những
hành vi âu yếm, mở ngỏ cho sự sống, đôi bạn ý thức mình đang cộng tác vào công
trình sáng tạo của Thiên Chúa và nên thánh trong chính trong chính nếp sống đó.
Khi chiêm ngắm tình yêu dịu dàng Thiên Chúa dành cho dân Israel, đôi vợ chồng
biết luôn đổi mới tình yêu của mình qua những cử chỉ, lời nói, việc làm để đem
lại hạnh phúc cho nhau và cho con cái. Trong việc giáo dục, cha mẹ ý thức mình
là những người cộng tác của Thiên Chúa, nhờ đó không ngã lòng hoặc buông xuôi
trước những đứa con bướng bỉnh, ngược lại, biết cậy trông vào ơn Chúa để luôn
nhẫn nại, kiên trì, và yêu thương.
Cha
xứ giải thích:
Tình yêu sáng tạo không chỉ
là dựng nên con người giống hình ảnh của Thiên Chúa mà con tạo nên một không
gian hạnh phúc để con người có thể sống và sống hạnh phúc. Như thế, tình yêu
sáng tạo không phải là hành vi yêu thương một lần thay cho tất cả nhưng đúng
hơn, là một hành vi yêu thương trường tồn qua dòng thời gian để con người không
chỉ là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa mà còn được bao bọc, che chở, nuôi
dưỡng và đạt tới hoàn thiện với và trong tình yêu Thiên Chúa. Sống tình yêu
sáng tạo trong hôn nhân gia đình không chỉ dừng lại ở lời cam kết khi kết hôn
và sau đó, sinh con cái mà còn phải vượt xa hơn trong nỗ lực tạo một không gian
hạnh phúc cho sự sống và tình yêu hạ sinh, nuôi dưỡng và phát triển.
2.2. Tình yêu Giao ước
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân Israel và ban
cho họ Mười điều răn để hướng dẫn họ sống trung thành với giao ước. Ngài mời
gọi họ: “Nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa
hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một
vương quốc tư tế, một dân thánh” (Xh 19,5-6).
Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước. Dù dân Israel bất trung,
bội phản, Thiên Chúa vẫn một mực trung tín, xót thương và tha thứ. “Núi có dời
có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với người vẫn không thay
đổi” (Is 54,10). “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho
ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3).
Khi cử hành bí tích Hôn phối, đôi bạn trao đổi với nhau lời thề
hứa sẽ yêu thương và trung chuỷ với nhau suốt đời: “Tôi là.... nhận (anh / em)
làm (chồng / vợ) và hứa giữ lòng chung thuỷ với (anh / em), khi thịnh vượng
cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương và tôn
trọng (anh / em) suốt đời tôi”.
Ơn bí tích Hôn phối giúp hai vợ chồng nên thánh trong việc sống
lời cam kết trên mỗi ngày một trọn vẹn hơn. Khi nỗ lực sống yêu thương và trung
thành với nhau, đôi vợ chồng phản ánh tình yêu của Thiên Chúa đối với con
người, cũng như tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh. Đó là một tình yêu son
sắt không đổi thay. Tình yêu đó tạo nên sự hiệp thông thâm sâu giữa vợ chồng
với nhau, cũng như giữa cha mẹ và con cái, phản ánh mầu nhiệm hiệp thông trong
Hội Thánh.
Thư Mục vụ HĐGM VN năm 1992 cũng viết: “Sống Phúc Âm trong đời
sống gia đình chính là sống tình yêu chung thuỷ mà con người đời nào cũng khát
khao ca tụng và đã được Chúa Giêsu củng cố bằng bí tích Hôn phối. Chính Chúa
Giêsu còn dựa vào sách Sáng thế để tái lập quyền bình đẳng nam nữ và tinh thần
bất khả phân ly của hôn nhân (St 2,18-24; Mt 19,6). Trong một xã hội mà đời
sống gia đình đang bị đe dọa bởi nạn ly dị và những lối sống trái với luân lý
đạo đức Việt Nam, sự trung thành giữa vợ chồng Kitô hữu sẽ là một ánh lửa soi
sáng và sưởi ấm, một sự khuyến khích cho các gia đình khác”.
Giao ước được ví như một
sợi dây được làm bởi tình yêu, một đầu buộc vào người này và đầu còn lại buộc
vào người kia. Để từ đây, bất chấp nghịch cảnh, họ luôn có nhau trong cuộc sống
hàng ngày. Tình yêu giao ước này như biểu lộ của giao ước mới “đây là giao ước
mới và vĩnh cửu”.
2.3. Tình yêu Thập giá
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói: “Không có tình yêu nào lớn
hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13. Ngài
đã dùng cái chết trên thập giá để minh chứng Tình yêu của Thiên Chúa và để đem
lại ơn cứu độ cho nhân loại. Con đường thập giá là con đường tình yêu, chấp
nhận đau khổ để xoá bỏ tội lỗi và mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Thánh
Phaolô đã khuyên nhủ các người làm chồng hãy nhìn vào gương Đức Kitô: “Người
làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến
mình vì Hội Thánh..., để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy,
không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện
và tinh tuyền” (Ep 5,25.27).
Đời sống hôn nhân và gia đình có rất nhiều thập giá: những khuyết
điểm và tính xấu của nhau, những va chạm và xung khắc, những thất bại và rủi
ro, những khi gặp tai ương và bệnh hoạn, cảnh hiếm muộn cũng như việc chấp nhận
từ bỏ ý riêng để sống theo giáo huấn Hội Thánh về việc sinh sản có trách nhiệm
v.v... Đó là những thập giá cần được đón nhận với tình yêu. “Đời sống
Kitô hữu mà không qua thập giá thì không thể đạt tới sự phục sinh. Như thế phải
hiểu rằng không thể loại bỏ sự hy sinh trong đời sống gia đình, nhưng trái lại
phải sẵn sàng đón nhận nó để tình yêu vợ chồng thêm sâu lắng và trở thành nguồn
vui thân mật”[11].
Trong đời sống hôn nhân và gia đình, đôi bạn được mời gọi ngước
nhìn lên thập giá Đức Kitô để học yêu thương, sống hi sinh, đón nhận nhau và
tha thứ cho nhau. “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà
và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh
em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em,
thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13).
Chính khi chấp nhận đi theo “con đường hẹp”, từ bỏ mình vác thập
giá mình hằng ngày mà bước theo Đức Kitô, đôi vợ chồng cộng tác vào công trình
cứu độ cho mình và cho mọi người trong gia đình.
Cha
xứ giải thích:
Thập giá sẽ trở nên nặng nề
khi ta kéo lê nó trong cuộc đời nhưng nó có lẽ sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn khi ta
vác nó trên vai với tình yêu. Đối với một hôn nhân không đúng như lòng ta mong
chờ, tình yêu thập giá mời gọi chúng ta đừng tìm cách trốn chạy nó dù chỉ trong
suy nghĩ; cũng đừng sống hôn nhân ấy cách tiêu cực nhưng là tích cực. Bằng tình
yêu khiêm nhường và tự hạ, đôi bạn hãy đón lấy với thái độ tích cực để cùng
nhau cải thiện nó mỗi ngày nên tốt hơn.
Nếu bạn muốn biến đổi người
khác bạn hãy biến đổi chính mình. Cũng vậy đừng đòi hỏi người khác làm cho bạn
nhưng hãy tự hỏi bạn đã làm gì cho người khác. Gia đình không chỉ là dòng sông
hạnh phúc để bạn đến tắm nhưng chính bạn phải bảo vệ nó và làm cho nó mỗi ngày
nên hạnh phúc hơn bằng cố gắng không ngơi nghỉ của mình.
2.4. Tình yêu Phục sinh
Đức Kitô phục sinh đã ra khỏi mồ. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và
sự chết, mang lại sự sống mới cho nhân loại cùng giao hoà tội nhân với Chúa
Cha.
Trong đời sống hôn nhân và gia đình, mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh
mời gọi đôi bạn luôn canh tân tình yêu của mình, không để những ích kỷ, ghen
tương len lỏi vào tình yêu đôi lứa. Phương thế để canh tân tình yêu, chính là
siêng năng đọc Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, học biết thêm những
kiến thức mới trong sách vở, báo chí để nuôi dưỡng tình yêu gia đình.
Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn có sứ mạng truyền giáo, rao giảng
Tin Mừng[12].
Gia đình phải cởi mở đón nhận Lời Chúa, rồi loan báo cho mọi người. Việc làm
chứng và truyền giáo trước hết là trong chính gia đình: cha mẹ loan báo Tin
Mừng cho con cái bằng những lời dạy dỗ và nhất là bằng gương sáng. Ngược lại,
con cái cũng có bổn phận góp phần làm cho cha mẹ nên thánh.
Thư chung của Hội Đồng Giám Mục VN năm 1980 cũng nói: “Gia đình
của anh chị phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện.
Một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm
chứng cho Chúa”.
Gia đình Kitô hữu làm tông đồ bằng “chứng tá”. “Phải chứng minh
rằng các con được gọi nên thánh và các con có thể sống một đời hôn nhân đẹp
lòng Chúa. Các con chia sẻ với các gia đình khác: ân sủng, hạnh phúc, Chúa đã
ban cho gia đình các con. Nhìn vào gia đình các con, thiên hạ phải đặt câu hỏi:
“Tại sao họ có thể sống hiệp nhất, yêu thương, trung thành với nhau như thế?[13]"
2.5. Tình yêu Bí tích
Nhờ bí tích Hôn phối, gia
đình Kitô hữu trở thành bí tích của Thiên Chúa. Bí tích là một dấu chỉ hữu hình
giúp người ta thấy được một điều vô hình. Gia đình là Bí tích, vì gia đình có
thể giúp người ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa.
"Cũng như tất cả mọi bí tích đều "có mục đích thánh hoá
con người, xây dựng Thân Thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa[14]",
Bí tích Hôn phối tự nó cũng là một hành vi phụng vụ để tôn vinh Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô và trong Hội Thánh. Khi cử hành bí tích ấy, đôi bạn Kitô
hữu bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với Thiên Chúa vì ơn huệ cao cả Ngài đã ban
cho họ, để trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, họ có thể sống lại chính tình
yêu của Thiên Chúa đối với loài người và tình yêu của Đức Kitô đối với Hội
Thánh là hiền thê của Ngài[15]".
Như vậy, qua bí tích Hôn phối, đôi vợ chồng Kitô hữu vừa là biểu
hiệu mầu nhiệm của sự kết hợp và của tình yêu phong phú giữa Đức Kitô và Hội
thánh, vừa tham dự vào mầu nhiệm này. Việc vợ chồng con cái yêu thương nhau là
do Thiên Chúa nâng đỡ, nhưng đồng thời cũng cho thấy tình yêu Thiên Chúa và
diễn tả tình yêu của Ngài.
Dấu chỉ Bí tích hôn phối được thể hiện qua lời cam kết trung thành
yêu thương nhau và tôn trọng nhau suốt đời, qua việc trao cho nhau chiếc nhẫn
cưới làm biểu hiệu tình yêu và lòng chung thuỷ. Chiếc nhẫn nhắc nhở cho đôi bạn
những lời họ đã cam kết, để họ luôn nỗ lực sống tín trung và tôn trọng nhau “mọi
ngày suốt đời”.
Tuy nhiên, để có thể diễn tả một cách trung thành tình yêu của
Thiên Chúa, “yêu thương như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh”, gia đình Kitô hữu
cần phải có ơn Chúa. Con đường nên thánh trong đời sống hôn nhân và gia đình
phải là con đường đối thoại với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Chúa, cầu
nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí tích.
“Do bí tích Hôn phối, đôi bạn nhận được sự thánh thiện và hằng
ngày có nghĩa vụ phải sống sự thánh thiện đã nhận được. Cũng do bí tích ấy, họ
nhận được ơn và có nghĩa vụ luân lý phải biến đổi toàn thể đời sống mình thành
một hy lễ thiêng liêng dâng lên Thiên Chúa. Như thế, giáo dân cung hiến cho
Thiên Chúa chính thế giới này, nhờ biết phụng thờ Ngài khắp nơi bằng đời sống
thánh thiện của mình[16]".
Việc lãnh nhận các bí tích
phải đến từ chính lòng tin, tình yêu và niềm hy vọng đích thực vào Thiên Chúa
Ba Ngôi. Muốn thế, mỗi lần lãnh nhận chúng ta cần chuẩn bị thật tốt cả tâm hồn
lẫn thân xác, cả bên ngoài lẫn bên trong chứ đừng lãnh nhận cách cho có cho qua
sẽ là vô ích.
Thánh Giuse và Đức Maria là đôi vợ chồng thánh thiện, đã nêu gương
cho các đôi vợ chồng Kitô hữu. Sở dĩ gọi là Thánh Gia, chính vì gia đình của
Giuse - Maria gồm những con người thánh, đặc biệt có Chúa Giêsu là Đấng Thánh ở
cùng. Con đường nên thánh trong yêu thương và chu toàn bổn phận gia đình chính
là con đường mà Thánh Gia ngày xưa đã đi qua. Mỗi gia đình Kitô hữu ngày nay cũng
được mời gọi noi gương Thánh Gia để trở thành những thánh gia khác. Đó là những
cộng đồng yêu thương và hiệp nhất, mà khuôn mẫu là sự hiệp thông của Ba Ngôi
Thiên Chúa. Sự hiệp thông này không khép kín nhưng mở ra với các gia đình khác
và nhất là vươn lên tới chính Thiên Chúa Tình yêu.
Khi nhìn vào gương Thánh Gia, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi
phát triển lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria: “Khi được diễn tả bằng các tương
quan chân thành với Đức Trinh Nữ và bằng việc noi theo đời sống thiêng liêng của
ngài, lòng tôn sùng Đức Mẹ đích thực là một phương tiện đặc biệt để nuôi dưỡng
sự hiệp thông tình yêu trong gia đình và để phát triển linh đạo hôn nhân và gia
đình. Mẹ của Đức Kitô và của Hội Thánh, một cách đặc biệt cũng là Mẹ của các
gia đình Kitô hữu là những Hội Thánh tại gia[17]“.
GHI NHỚ:
1. H. Nên thánh là gì?
T. Nên thánh là “sống hoàn thiện như Cha trên trời”, trở nên giống
Đức Kitô bằng cách sống yêu thương và chu toàn bổn phận.
2. H. Những ai trong Hội Thánh được mời gọi nên thánh?
T. Mọi Kitô hữu đều có bổn phận nên thánh trong bậc sống của mình.
3. H. Linh đạo hôn nhân và gia đình là gì?
T. Linh đạo hôn nhân và gia đình là con đường nên thánh dành cho
những người sống bậc hôn nhân và gia đình.
4. H. Linh đạo hôn nhân và gia đình hệ tại ở điểm nào?
T. Linh đạo Hôn nhân và gia đình hệ tại ở Tình Yêu, lấy Tình yêu
của Thiên Chúa đối với con người và Tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh làm
khuôn mẫu.
5. H. Linh đạo hôn nhân và gia đình được gợi hứng từ đâu?
T. Theo Tông huấn Gia đình, “Linh đạo hôn nhân và gia đình phải
được gợi hứng từ các chủ đề về Sáng tạo, Giao ước, Thập giá, Phục sinh và dấu
hiệu bí tích.
6. H. Để thực hành linh đạo hôn nhân và gia đình, đôi vợ chồng cần
sống thế nào?
T. Để thực hành linh đạo hôn nhân và gia đình, đôi vợ chồng cần có
:
- Một là tình yêu sáng tạo để sinh sản và giáo dục con cái.
- Hai là tình yêu trung thành để sống lời cam kết hôn nhân mỗi
ngày một trọn vẹn hơn.
- Ba là tình yêu hi sinh để vui nhận vác thánh giá hàng ngày.
- Bốn là canh tân đời sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng.
- Năm là siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích.
GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Một người vợ tâm sự: “Từ khi hiểu biết Chúa Giêsu nhiều hơn và
tình yêu của Ngài bắt đầu thấm sâu vào đời con, đã có một sự thay đổi rất lớn
trong quan hệ của con với chồng. Có thể nói con như yêu anh ấy một lần nữa sau
15 năm kết bạn với nhau. Mọi ước mơ trong lòng và mọi khát vọng thiêng liêng của
con đã đơm bông kết trái”. Anh chị nghĩ thế nào về điều này?
2. Theo anh chị, con đường nên thánh trong gia đình có phải là con
đường giúp cho gia đình anh chị đạt được hạnh phúc không? Đâu là yếu tố nòng
cốt làm cho gia đình được hạnh phúc?
3. Nhìn vào gương Thánh Gia, anh chị học được điều gì cho gia đình
mình?
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, Chúa đã muốn chúng con làm thành một gia đình Công giáo,
một cộng đoàn yêu thương, để trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa giữa lòng
cuộc đời. Xin cho mọi người trong gia đình chúng con sốt sắng thờ phượng, kính
mến Chúa và hết lòng hoà thuận thương yêu nhau.
Xin cho chúng con nhiệt thành sống đức tin, hôm sớm cầu nguyện
chung với nhau làm cho gia đình trở thành một đền thờ sống động của Chúa, siêng
năng tham dự phụng vụ, chuyên cần học hỏi Lời Chúa và đem ra thực hành.
Trong lúc gia đình chúng con vất vả làm việc, gặp vui mừng hay thử
thách, xin cho chúng con biết luôn luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa.
Đối với những gia đình chung quanh, xin cho chúng con biết thật
lòng yêu mến, sẵn sàng chia sẻ vật chất cũng như tinh thần, nhất là chia sẻ Tin
mừng tình thương của Chúa cho họ.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng gia đình chúng con cho Chúa, chúng
con nguyện sống theo gương Thánh Gia mỗi ngày. Xin chúc lành cho mỗi người
trong gia đình chúng con, có mặt cũng như vắng mặt, còn sống hay đã qua đời,
hầu bây giờ chúng con trở nên ánh sáng tình thương của Chúa, và ngày sau được
sum họp với nhau bên Chúa muôn đời. Amen.
[1] GĐ 56
[2] x. GLHT 1265
[3] x. Ep 1,3-7
[4] Rm 8,14
[5] GH 40
[6] x. GLHT 826
[7] x. Ep 6,32
[8] GH 11
[9] GĐ 56
[10] x. Ep 1,3-6
[11] GĐ 34
[12] GLHT 2205
[13] x. ĐHY Phanxicô
Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, 501
[14] PV 59
[15] GĐ 56
[16] x. GĐ 56
[17] GĐ 61
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét