Còn những ai đã kết
hôn,
thì tôi truyền –
thật ra không phải tôi, mà là Chúa –
là vợ không được bỏ
chồng,
và giả như đã bỏ
chồng thì phải ở độc thân, hay phải làm hòa với chồng;
và chồng cũng không
được rẫy vợ (1 Cr 7,10-11).
Trong Tông huấn về
Gia Đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói: “Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân
và gia đình liên hệ đến người nam và người nữ trong đời sống cụ thể hằng ngày
của họ... Vì thế, nhằm chu toàn việc phục vụ của mình, Hội Thánh tìm cách để
biết được những hoàn cảnh trong đó hôn nhân và gia đình đang sống[1]”.
Qua những lời trên,
ngài nói đến những hoàn cảnh thuận lợi cho hạnh phúc gia đình, cũng như những
tình huống xói mòn và làm cho gia đình tan vỡ. Như người mẹ đối với con cái,
Hội Thánh phấn khởi, khi thấy các gia đình được yên vui hạnh phúc, đồng thời
cũng không ngớt âu lo, khi thấy những gia đình vợ chồng ly tán. Ngay cả những
gia đình đã hay sắp tan vỡ, Hội Thánh cũng tìm cách hàn gắn, cứu chữa hay ít
nhất tìm cách tạo cho họ một nếp sống phù hợp với luật Chúa để có được hạnh
phúc.
Trong bài này, dựa
trên giáo luật, chúng ta sẽ bàn về những gia
đình phân ly:
-
Những trường hợp nào Hội Thánh có thể tháo gỡ dây hôn
phối?
- Vấn đề ly thân, ly
dị và tái hôn sau khi ly dị thì sao?
1. Những trường hợp Hội Thánh có thể tháo gỡ
dây hôn phối
1.1. Trường hợp không thể tháo gỡ:
Giữa hai người đã
chịu bí tích Rửa tội, “hôn nhân đã ký kết và hoàn hợp thì không thể bị tháo gỡ
bởi bất cứ quyền lực nhân loại nào, bất cứ vì lý do gì, ngoại trừ cái chết[2].”
Bởi vậy, Hội Thánh
không có quyền cho phép ly dị các cuộc hôn nhân đã trọn vẹn.
Hôn nhân trọn vẹn tức là:
- Hôn nhân đã thành
sự. (không có ngăn trở gì và cử hành hợp luật)
- Là bí tích. (giữa hai người Công Giáo, một nam và một nữ)
- Đã ăn ở với nhau. (hoàn hợp chỉ nói đến sự ăn với nhau sau khi cử hành Bí tích Hôn phối)
Không
trọn vẹn là khi thiếu một trong ba điều trên[3].
1.2. Trường hợp có thể tháo gỡ:
Đối với những cuộc
hôn nhân không trọn vẹn, Hội Thánh có quyền tháo gỡ trong những trường hợp sau:
1.2.1.
Hôn nhân giữa hai người Công giáo, hoặc một người Công giáo và một người không
Công giáo, đã thành sự nhưng chưa ăn ở với nhau[4].
Cha xứ giải thích:
Thành sự nhưng chưa hoàn hợp. Ví dụ sau khi cưới cô B,
trong tiệc cưới, anh A phát hiện hay nghi ngờ sự phản bội của cô. Do đó, anh
báo cha xứ và quyết định anh (A) không ở với người kia (B) – quan hệ vợ chồng –
sau khi kết hôn.
1.2.2. Hôn nhân giữa
hai người chưa được rửa tội, đã thành hôn và đã ăn ở với nhau, rồi sau đó một
người trở lại đạo và người kia không muốn chung sống. Đây là trường hợp thuộc
“đặc ân thánh Phaolô” (1Cr 7,15). Hôn nhân chỉ được tháo gỡ khi người mới theo
đạo lấy một người khác[5].
Cha xứ giải thích:
Cha mới tiếp nhận một trường hợp như sau: Anh A và chị B đã có hôn nhân
dân sự (cả hai không là người Công giáo hay Kitô hữu). Họ đã ly dị với nhau và
chị B đã có một gia đinh mới. Bây giờ anh A quen và muốn kết hôn khác đạo với
chị C, một tín hữu Công giáo.
Trong trường hợp này, nếu anh A trở lại đạo để cưới chị C thì hôn nhân
cũ của anh được tháo gỡ bởi đặc ân thánh Phaolô. Còn trong trường hợp này, anh
A muốn cưới chị C theo phép chuẩn khác đạo, thì hôn nhân không thể thành sự
giữa anh A và chị C bởi vì Hội Thánh nhìn nhận hôn nhân tự nhiên nhưng không
chấp nhận ly hôn tòa đời.
1.2.3.
Ngoài ra, có những cuộc hôn nhân vốn đã không thành sự ngay từ đầu, vì mắc phải một hoặc nhiều ngăn trở như đã kể ở trên.
Đối với những cuộc hôn nhân này, Hội Thánh có quyền giải tán[6].
Cha xứ giải thích:
Các bạn thấy có những đôi hôn phối đang sống trong gia đình với con cái
cháu chắt của họ bỗng họ được cho phép để làm lễ cưới với một người khác. Trong
trường hợp này, Hội Thánh chỉ công bố hôn nhân của họ là bị vô hiệu, là không
thành sự vì ngăn trở chứ không phải Hội Thánh cho ly dị hay tháo gỡ hôn phối.
2. Ly thân
Hội
Thánh không cho phép vợ chồng ly dị nhau. Tuy nhiên, có những hoàn cảnh thực tế hai vợ chồng không thể tiếp tục sống
chung được vì nhiều lý do khác nhau. Chẳng hạn như:
- Do ngoại tình[7].
- Do gây nguy hiểm
trầm trọng về tinh thần hay thể xác cho bên kia hoặc cho con cái[8].
- Hay nếu bằng cách
nào khác làm cho đời sống chung trở nên quá cơ cực, không thể chịu đựng nổi[9].
Trong những trường
hợp này, Giáo quyền (Giám mục giáo phận hoặc vị Thẩm phán[10])
chấp nhận cho họ ly thân và không sống chung nữa (tạm thời hay vĩnh viễn). Tuy
nhiên, họ vẫn là vợ chồng của nhau trước mặt Thiên Chúa. Họ không được tự do để
kết hôn với người khác bao lâu người chồng hay vợ mình còn sống. Hôn nhân tiếp
sau không những bị cấm mà còn bất thành nữa[11].
Trong hoàn cảnh khó
khăn, giải pháp tốt nhất, nếu có thể, là hòa giải với nhau. Cộng đoàn tín hữu
được mời gọi giúp họ sống đời Kitô hữu trong hoàn cảnh ấy, trung thành với dây
liên kết hôn nhân không thể tháo gỡ được[12].
Cha xứ giải thích:
Ly thân không sống chung trong một gia đình nhưng dây hôn phối vẫn còn.
Một khi ly dị, đôi bạn không còn cơ hội để tái hợp lại trong khi ly thân, cả
hai vẫn có cơ hội để chung sống với nhau trong mối liên hệ hôn nhân và gia
đình. Hội Thánh kiên nhẫn chờ đợi và cầu mong ngày đoàn tụ của họ.
3. Vấn đề ly dị
Hầu hết các nước
trên thế giới ngày nay đều có luật cho phép ly dị[13],
và thực tế cho thấy: không những các gia đình lương dân xin ly dị mà nhiều
người Công giáo cũng đã ly dị theo luật đời. “Hội Thánh trung thành với lời dạy
của Đức Kitô: “Ai bỏ vợ mình mà lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình
đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm
tội ngoại tình” (x. Mc 10,11-12) nên không thể chấp nhận việc ly dị.
Nếu hôn nhân lần đầu đã thành sự, Hội Thánh không thể công nhận liên kết mới là
thành sự[14].”
4. Tái hôn sau khi li dị
Nếu những người đã
ly dị, tái hôn theo luật đời, họ rơi vào tình trạng khách quan đi ngược lại
luật Thiên Chúa. Vì thế, bao lâu còn sống trong tình trạng này, họ không được
rước lễ, đồng thời cũng không thể đảm nhận một số trách nhiệm trong Hội Thánh.
Tuy nhiên, Hội Thánh rất mong họ hoán cải vì họ đã vi phạm đến dấu chỉ giao ước và sự trung thành với Đức Kitô,
đồng thời họ phải cam kết sống tiết dục trọn vẹn, để được giao hòa
nhờ bí tích thống hối[15].
“Đối với những tín
hữu đang sống trong hoàn cảnh như vậy, mà vẫn giữ đức tin và ao ước giáo dục
con cái theo tinh thần Công giáo, linh mục và cộng đoàn phải có thái độ ân cần
đặc biệt, để họ đừng bị coi như đã tách lìa khỏi Hội Thánh và nếp sống đạo mà
họ có thể và phải giữ vì đã được rửa tội: “Họ được mời gọi nghe Lời Chúa, tham
dự hy tế thánh lễ, kiên trì cầu nguyện, góp phần vào các công cuộc bác ái và các sáng kiến của cộng đoàn để phục vụ công
lý, giáo dục con cái trong đức tin công giáo, vun trồng tinh thần sám hối và
làm các việc đền tội, để ngày qua ngày thành khẩn nài xin ân sủng
Thiên Chúa[16]”.
Trong chương 8 của tông huấn AMORIS LAETITIA “niềm vui tình yêu” của
Đức Thánh Cha Phanxicô có đề cập tới việc cho rước lễ đối với những người ly dị
và tái hôn. Dĩ nhiên, đây không là một sự cho phép thường xuyên và không bao
hàm mọi trường hợp mà chỉ trong những hoàn cảnh đặc biệt. Không phải chính
người đã ly dị tái hôn quyết định nhưng là kết quả của cuộc gặp gỡ của vị mục
tử với đôi bạn để nhờ đó có thể biện phân cách chính xác hoàn cảnh của họ trước
khi mang đến một giải pháp thích hợp. Chúng ta chờ đợi tiếng nói chính thức của
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho vấn đề này.
GHI NHỚ:
1. H. Hôn nhân trọn
vẹn và không trọn vẹn là thế nào?
T. Hôn nhân trọn vẹn
là hôn nhân đã thành sự, đã là một bí tích và đã ăn ở với nhau. Còn hôn nhân không trọn vẹn là khi thiếu một trong ba
điều trên.
2. H. Hội Thánh có
quyền tháo gỡ những cuộc hôn nhân đã trọn vẹn không?
T. Hội Thánh không
có quyền tháo gỡ những cuộc hôn nhân đã trọn vẹn, vì đó là luật Thiên Chúa.
3. H. Hội Thánh có
quyền tháo gỡ những cuộc hôn nhân nào?
T. Hội Thánh có
quyền tháo gỡ những những cuộc hôn nhân không trọn vẹn, trong những trường hợp
sau:
- Một là hôn nhân
giữa hai người Công giáo, hoặc một người Công giáo và một người không Công
giáo, đã thành sự nhưng chưa ăn ở với nhau.
- Hai là hôn nhân tự
nhiên giữa hai người chưa được rửa tội. Đây là trường hợp thuộc “đặc ân thánh
Phaolô”.
- Ba là có những
cuộc hôn nhân vốn đã không thành sự ngay từ đầu, vì mắc phải một hoặc nhiều
ngăn trở như đã kể ở trên.
4. H. Ly thân là gì?
T. Ly thân là khi
hai người không còn chung sống với nhau, nhưng vẫn là vợ chồng.
5. H. Hội Thánh có
thể cho ly thân không?
T. Trong một số
trường hợp đặc biệt, Hội Thánh có thể cho ly thân.
6. H. Những người đã
ly thân có được phép kết hôn với người khác nữa không?
T. Không, vì họ vẫn
là vợ chồng trước mặt Thiên Chúa.
7. H. Hội Thánh có
thái độ nào đối với những đôi vợ chồng đã ly dị và tái hôn?
T. Trung thành với
lời dạy của Đức Kitô, Hội Thánh không chấp nhận việc ly dị, và cũng không công
nhận hôn nhân mới là thành sự.
8. H. Hội Thánh mong
ước gì nơi họ?
T. Hội Thánh ân cần
mời gọi họ lắng nghe Lời Chúa, tham dự thánh lễ, cầu nguyện, thực thi bác ái,
giáo dục con cái trong đức tin và sớm hoán cải.
GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Trong gia đình
hay dòng họ anh chị có cặp vợ chồng đang lục đục với nhau, anh chị phải làm gì
để giúp họ vượt qua giai đoạn khủng hoảng này?
2. Đối với những gia
đình anh chị quen biết mà đã ly thân hay ly dị, Hội Thánh đề nghị anh chị làm
gì để giúp đỡ họï, và bằng kinh nghiệm riêng, anh chị thấy đâu là việc cần phải
làm ngay để nâng đỡ họï?
3. Đối với con cái
của những gia đình bà con, bạn bè đã ly thân hay ly dị, anh chị có cách gì để
giúp đỡ các cháu sống đạo và trở nên người tốt cho gia đình và xã hội không?
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, Chúa đã
mời gọi chúng con sống giao ước tình yêu của Chúa qua đời sống hôn nhân và gia
đình, để chúng con được hạnh phúc. Chúa cũng muốn chúng con trung thành sống
yêu thương hiệp nhất trong gia đình để nói lên tình yêu trung thành của Chúa
dành cho mọi người. Nhưng vì yếu hèn, chúng con đã bóp méo hình ảnh yêu thương
nhân hậu của Chúa, khi chúng con làm cho gia đình rạn nứt và đổ vỡ. Xin Chúa
thương ban ơn trợ giúp, ban Thánh Thần Tình Yêu đến để Ngài sửa lại những lệch
lạc trong đời sống gia đình và dùng lửa tình yêu của Ngài liên kết gia đình
chúng con nên một. Amen.
[1] GĐ 4
[2] GLHT 2383; x. GL 1141
[3] GL 1141; 1061
[4] GL 1142
[5] x. GL 1143-1147
[6] GLHT 1625-1632, GL 1083 – 1094. 1108-1123
[7] GL 1152
[8] GL 1153 §1
[9] x. GL 1153 §1
[10] GL 1692
[11] x. GL 1085
[12]x. GLHT 1649; x. GĐ 83; GL 1151-1155
[13] x. Luật Hôn nhân và Gia đình chương IX: Ly hôn (điều 85-99)
[14] x. GLHT 1650
[15] x. GLHT 1650
[16] GĐ 84, GL 1651
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét