Ta hãy vui mừng hoan
hỉ, hãy tôn vinh Chúa!
Vì này đã đến rồi,
tiệc cưới Chiên Con,
và hiền thê của Ngài
đã trang điểm sẵn sàng.
Và nàng được mặc
trúc bâu rạng ngời tinh sạch (Kh 19,7-8).
Tự bản chất, hôn
nhân mang tính xã hội, vì nối kết đôi bạn trước mặt gia đình, bạn bè, cũng như
trước mặt toàn thể xã hội. Chính vì thế, xã hội nào cũng có những quy định về
cưới hỏi, tạo nên những phong tục, tập quán riêng.
Đối với Kitô giáo,
hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh và đã được Đức Kitô nâng lên hàng bí
tích. Bởi vậy, đối với bí tích Hôn phối, Hội Thánh cũng có những thủ tục và lễ
nghi nhằm diễn tả bản chất đích thực của giao ước hôn nhân, đồng thời giúp đôi
tân hôn đón nhận dồi dào ơn sủng do bí tích Hôn phối mang lại.
Là Kitô hữu Việt
Nam, khi tổ chức hôn lễ, chúng ta cần diễn tả đức tin theo nét văn hoá truyền
thống của mình.
1. Các thủ tục và nghi lễ dân sự
1.1. Các thủ tục về mặt dân luật
- Đăng ký
kết hôn: tại Ủy ban Nhân dân, nơi đang cư trú (xã, phường, thị trấn)
của một trong hai bên kết hôn[1].
Sau khi nhận đủ giấy
tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật, cơ quan hữu trách sẽ kiểm tra hồ sơ; nếu
xét thấy hai bên có đủ điều kiện thì sẽ tổ chức đăng ký kết hôn[2].
- Tổ chức
đăng ký kết hôn: Khi tổ chức đăng ý kết hôn phải có mặt hai bên nam
nữ. Đại diện cơ quan yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai
bên đồng ý, thì sẽ trao Giấy chứng nhận kết hôn[3].
Lời dặn của cha xứ:
Bạn
phải mang giấy kết hôn tới cha xứ khi xin ngài rao hôn phối hay ít nhất trước
khi cử hành hôn lễ.
1.2. Các nghi lễ theo truyền thống Việt Nam
Nghi lễ cưới hỏi của
Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều văn hoá Trung Quốc. Theo sách xưa, việc hôn
nhân gồm có: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp tệ, Thỉnh kỳ, Thân nghinh[4].
Ngày nay, các lễ trên đã được đơn giản hoá và thu gọn vào trong ba lễ sau:
1.2.1. Lễ dạm hay chạm ngõ
Trước đây, việc hôn
nhân là do cha mẹ ấn định qua người mai mối (ông mai bà mai), nên nhiều đôi
trai gái không hề biết nhau. Lễ “chạm ngõ” là để chàng trai xem mặt cô gái, và
cũng để cô gái thấy mặt chàng trai của mình. Đây cũng là dịp để gia đình hai
bên chính thức xác nhận việc mai mối của ông mai bà mai.
Lễ dạm là nghi thức
đầu tiên, sau khi đôi trai gái yêu nhau và được cha mẹ hai bên đồng ý. Dạm là
ướm hỏi xem có ưng thuận không. Gia đình hai bên gặp nhau để xin cho đôi
trai gái được chính thức đi lại tìm hiểu nhau. Nghi thức này thường được tổ
chức giới hạn trong gia đình hai bên. Tuy nhiên, ngày nay nhiều nơi đã bỏ lễ
này, chỉ còn giữ lễ đính hôn và lễ cưới.
1.2.2. Lễ đính hôn (hay lễ hỏi,
đám nói hay đám hỏi)
Sau thời gian tìm
hiểu, bên nhà trai mang lễ vật đến nhà gái chính thức xin cầu hôn. Lễ hỏi
thường gồm trầu cau, rượu, chè (trà) và bánh trái. Tất cả được đựng trong hộp
màu đỏ hoặc gói giấy đỏ vì màu đỏ chỉ sự vui mừng.
Những lễ vật của nhà
trai mang tới được nhà gái đặt một ít lên bàn thờ gia tiên. Lễ xong, bánh trái,
trầu cau, chè được nhà gái “lại quả” cho nhà trai một ít, còn lại nhà gái dùng
để chia cho họ hàng, thân quyến. Mục đích của việc chia bánh trái, biếu trầu
cau là để báo tin cho họ hàng bạn bè nhà gái biết con gái mình đã đính hôn.
1.2.3. Lễ cưới (trai thì Thành
Hôn, gái thì Vu Quy)
- Lễ Vu Quy:
Lễ cưới cử hành tại
nhà gái được gọi là Lễ Vu Quy, tức là lễ cho con gái về nhà chồng. Trước đây,
lễ này còn được gọi là lễ nghênh thân hay lễ nghênh hôn, vì trong lễ này chú rể
phải tới nhà bố mẹ vợ để đón cô dâu. Bởi vậy, lễ nghênh thân còn được gọi là lễ
đón dâu. Nhà trai đem lễ vật đến đặt trước bàn thờ. Nhà gái kiểm lại xem có đầy
đủ như đã thỏa thuận không. Sau khi công nhận đầy đủ, thì cho thắp đèn trên bàn
thờ để chú rể và cô dâu làm lễ gia tiên.
Chú rể lạy bốn lạy
trước bàn thờ để trình diện gia tiên, tiếp đến cô dâu lạy để xin phép xuất giá.
Sau đó, chú rể và cô dâu lạy ông bà, cha mẹ, cô dì, cậu mợ, chú bác, và họ hàng
nhà gái. Đây cũng là lúc cha mẹ và những người trong thân tộc nhà gái tặng tiền
hay quà cho dâu rể mới. Tiếp đến là tiệc mặn hay lạt. Cuối tiệc, trước khi cho
đón dâu về nhà chồng, đại diện nhà gái gởi gắm cô dâu cho nhà trai, xin nhà
trai đón nhận người con dâu vào trong gia đình và chỉ giáo thêm.
Tại Nam Bộ, Lễ Vu
Quy được tổ chức long trọng ngày hôm trước lễ cưới. Trong lễ này, nhà gái mời
tất cả thân tộc nội ngoại và cô dâu mời bạn bè dự tiệc. Thường chú rể cũng phải
đến trong bữa tiệc này để trình diện dòng họ nhà gái. Tối hôm trước ngày cưới,
thường có nghi lễ xuất giá rất cảm động, cô dâu lạy bàn thờ tổ tiên, rồi ông
bà, cha mẹ, những người thân trong gia đình. Lúc này, những người trong thân
tộc tặng quà, tiền cho cô dâu.
- Lễ Thành Hôn:
Lễ cưới được tổ chức
tại nhà trai gọi là lễ rước dâu. Đây mới chính là lễ Thành Hôn.
Đoàn rước về đến nhà
trai, cô dâu được đưa đến trước bàn thờ để làm nghi lễ thành hôn. Nghi thức nổi
bật nhất là đốt đèn trên bàn thờ gia tiên. Sau đó cô dâu lạy ông bà, cha mẹ
chồng, chào những người trong dòng họ nhà chồng. Lúc này, những người trong
thân quyến bên chồng sẽ tặng quà, tiền. Sau đó là nhập tiệc.
Cuối tiệc, đại diện
nhà gái gởi gắm cô dâu cho nhà trai, và nhà trai giã từ nhà gái.
2. Các thủ tục và nghi lễ tôn giáo
2.1. Các thủ tục theo giáo luật
Các thủ tục của Hội
Thánh có mục đích bảo đảm những điều kiện trên, giúp đôi bạn cử hành Bí tích
Hôn phối được thành sự.
- Chuẩn bị: Khi
có ý định tiến tới hôn nhân, hai bên nam nữ cần đến gặp cha xứ (thường là cha
xứ bên nữ).
Cha xứ sẽ trao đổi
và giúp anh chị làm tờ khai hôn phối, để biết anh chị có đúng là Kitô hữu không
(đã Rửa tội, Rước lễ và Thêm sức chưa), có hiểu rõ ý nghĩa của hôn nhân Kitô
giáo, có biết rõ nhiệm vụ của vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu không[5].
Ngài sẽ giúp anh chị học hoặc ôn lại giáo lý hôn nhân cũng như cách sống đức
tin trong đời sống hôn nhân và gia đình[6].
Việc chuẩn bị này là điều rất quan trọng để lời cam kết của hai anh chị trở
thành một hành vi tự do và có trách nhiệm, cũng như hôn ước của anh chị có được
nền tảng tự nhiên và siêu nhiên, vững chắc và lâu dài[7].
Để giúp anh chị kết
hôn thành sự và hợp pháp theo như luật của Hội Thánh quy định, ngài cũng cần
phải biết chắc hai anh chị không bị mắc ngăn trở nào[8].
Nếu có, ngài sẽ giúp anh chị giải quyết. Ngoài ra, anh chị cũng cần được hướng
dẫn để hiểu rõ ý nghĩa các nghi thức khi cử hành bí tích Hôn phối[9].
- Nếu anh hoặc chị
thuộc một giáo xứ khác thì phải trình giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm
sức. Việc chịu phép Rửa tội là cần thiết để lãnh nhận thành sự bí tích Hôn
phối. Còn đối với bí tích Thêm sức, luật Hội Thánh quy định: “Người Công giáo
nếu chưa Thêm sức, phải lãnh nhận bí tích này trước khi kết hôn[10].
Bí tích Thêm sức giúp củng cố và làm tăng trưởng đức tin trong đời sống vợ
chồng và của con cái sau này. Riêng đối với bí tích Giao hoà và Thánh Thể,
Hội Thánh khuyên: “Để lãnh nhận bí tích
Hôn phối cho có kết quả, hết sức khuyên đôi vợ chồng lãnh nhận các
bí tích Giao hoà và Thánh Thể[11].”
- Rao hôn
phối[12] :
Sau khi học hỏi giáo lý hôn nhân xong, nếu hai bên quyết định dứt khoát kết
hôn, thì trình cho cha xứ bên gái biết. Ngài sẽ làm lời rao hôn phối và rao
trong ba Chúa nhật ở giáo xứ của mỗi bên.
Việc
rao hôn phối tại mỗi xứ nhằm để cho mọi người trong cộng đoàn biết, thêm lời
cầu nguyện và xem xét có gì ngăn trở thì giải quyết trước
hoặc trình báo với cha xứ, đồng thời cũng để ấn định lễ cưới[13].
Sau cùng, anh chị
cũng cần nhớ: trước khi làm lễ cưới ở nhà thờ, anh chị phải hoàn tất thủ tục
đăng ký kết hôn theo dân luật.
- Cử hành bí
tích Hôn phối
. Địa điểm: tại
nhà thờ giáo xứ của bên nữ hoặc bên nam. Nếu cử hành tại một nhà thờ khác hay
một nhà nguyện, cần có phép của cha xứ [14].
. Nhân
chứng: cần có 2 người làm chứng[15].
. Chứng
hôn: Người chứng hôn là người hiện diện để đòi hỏi hai bên kết ước bày
tỏ sự ưng thuận lấy nhau và nhân danh Hội Thánh đón nhận sự bày tỏ ấy. Bình
thường, cha xứ là người chứng hôn[16].
Ngài có thể uỷ quyền cho các linh mục khác, hoặc phó tế chứng hôn[17].
Nơi nào thiếu linh mục và phó tế, Đức Giám mục giáo phận có thể uỷ quyền chứng
hôn cho một giáo dân xứng hợp[18].
- Ghi sổ: Sau
khi cử hành bí tích Hôn phối, đôi tân hôn, vị chứng hôn và hai người làm chứng
ký tên vào Sổ Hôn phối[19].
Sau đó ghi việc kết hôn vào sổ rửa tội của đôi tân hôn[20].
Cha xứ dặn dò:
Sau
khi lễ cưới hoàn tất, cha xứ sẽ trao cho các bạn giấy chứng nhận hôn phối để
thông báo với cha xứ bên nam về việc cử hành hôn lễ hoàn tất. Do đó, sau khi
hoàn tất việc tổ chức đám cưới, các bạn cần mang chứng thư hôn phối lên trình
cho cha xứ bên nam để ngài vào sổ lưu của giáo xứ.
2.2. Nghi thức bí tích Hôn phối
“Vì các bí tích đều
liên quan trực tiếp đến Bí tích Thánh Thể nên bình thường Bí tích Hôn phối phải
được cử hành trong Thánh lễ”[21].
“Trong thánh lễ, chúng ta tưởng niệm Giao Ước mới, trong đó Đức Kitô kết hiệp
vĩnh viễn với Hội Thánh là Hiền Thê được Ngài yêu mến và hiến thân để thánh
hoá. Do đó, bí tích Hôn phối được cử hành trong thánh lễ thật là thích hợp: đôi
hôn phối bày tỏ sự ưng thuận hiến thân cho nhau bằng việc liên kết với Đức Kitô
hiến thân cho Hội Thánh, đều được hiện tại hoá trong thánh lễ, và bằng việc
rước lễ để nhờ kết hợp với Mình và Máu Đức Kitô, họ “trở thành một thân thể”
trong Ngài[22].”
Nghi thức hôn phối
được bắt đầu sau bài Phúc âm và bài giảng, gồm ba phần:
1. Phần một: Thẩm
vấn đôi tân hôn
Chủ tế lần lượt hỏi
cô dâu và chú rể ba câu hỏi về sự tự do, về việc yêu
thương và tôn trọng nhau suốt đời và về việc đón nhận con cái. Những
câu hỏi này nhằm giúp đôi tân hôn chính thức xác nhận trước mặt mọi người rằng
họ thực sự ý thức và trưởng thành khi quyết định kết hôn, nghĩa là có sự tự do
để lấy nhau, chấp nhận ý nghĩa và mục đích của hôn nhân là yêu thương và chung
thủy với nhau, sẵn sàng đón nhận và giáo dục con cái.
2. Phần hai: Trao
đổi lời thề hứa
Đây là phần chủ yếu
của bí tích Hôn phối. Đôi tân hôn sẽ trao đổi lời thề hứa nhận nhau làm vợ làm
chồng và cam kết trung thành với nhau suốt đời.
Cha xứ dặn dò:
Các
bạn nên cố gắng học thuộc lòng những lời này và cần dành thời gian cho việc suy
nghĩ những đòi hỏi hàm chứa trong đó.
Sự
chung thủy là linh hồn của lời cam kết này “chung thủy khi thịnh vượng cũng như
lúc gian nan, khi đau ốm cũng như khi mạnh khỏe”.
Chung
thủy là điều kiện cần để yêu thương và tôn trong người bạn đời cho đến hơi thở
cuối cùng.
3. Phần ba: Làm phép
và trao nhẫn cưới
Chủ tế làm phép
nhẫn, sau đó anh chị trao nhẫn cho nhau, như dấu chỉ của tình yêu và lòng trung
thành. Tiếp đến, đôi tân hôn, hai người chứng và linh mục cùng ký tên vào Sổ
Hôn phối. Sổ này được lưu trong văn khố của giáo xứ. Việc ký tên này cũng có
thể được thực hiện sau thánh lễ.
Cha xứ đề nghị:
Nhẫn
là dấu chỉ của lòng trung thành. Đeo nhẫn trên tay như một lời thông báo với
người khác và nhắc nhớ chính tôi rằng “tôi đã kết hôn và thuộc về một con
người” và như thế, nó cũng giúp chúng ta cảnh giác hơn và mạnh mẽ hơn khi đối
diện với cám dỗ bất trung và bội tín. Theo cha nghĩ, các bạn đừng quá quan tâm
tới giá trị vật chất của chiếc nhẫn mà để ý tới giá trị tinh thần, thiêng liêng
của nó. Một số người nghĩ, các đôi hôn phối có thể bán nhẫn trong những lúc khó
khăn về kinh tế nếu nhẫn có giá trị thanh toán cao. Trong khi đó, nhẫn sẽ không
bị bán khi giá trị thanh toán của nó là thấp. Các bạn nên suy nghĩ về điều này.
Nghi thức Hôn phối
kết thúc. Thánh lễ tiếp tục. Sau kinh Lạy Cha có một lời nguyện đặc biệt cầu
cho đôi tân hôn. Hội Thánh khẩn cầu Chúa ban đầy ân sủng và phúc lộc cho đôi
tân hôn để bản thân họ được thánh thiện và hạnh phúc, gia đình họ được hòa
thuận và bền vững. Hội Thánh cũng nguyện xin ơn Thánh Thần cho họ vì “Chúa
Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của họ, là nguồn mạch tình yêu của họ, là sức mạnh
giúp họ chung thuỷ[23].”
Cha xứ dặn dò:
Phần
này quan trọng nhưng thường đôi hôn phối không chú ý tới đủ. Đây là giây phút
Hội Thánh và cộng đoàn phụng vụ cầu xin cho các bạn. Bởi đó, các bạn nên tập
trung, thinh lặng, lắng nghe và cầu nguyện cùng những lời đọc của linh mục chủ
tế để xin ơn Chúa thánh hóa và hướng dẫn các bạn trong đời sống mai ngày.
Các bài đọc Kinh
Thánh được chọn riêng cho lễ Hôn phối xoay quanh ba ý chính:
-
Mục đích, ý nghĩa, bản chất của tình yêu và hôn nhân Kitô giáo.
-
Những con người mẫu mực trong đời sống hôn nhân và gia đình.
- Bổn phận và trách
nhiệm của vợ chồng, cha mẹ, con cái trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Đối với việc công bố
Lời Chúa (đọc bài đọc 1 và 2), nên chọn trong số những người thân thuộc của đôi
tân hôn, chẳng hạn như người làm chứng, anh chị em trong gia đình hoặc bè bạn.
Lúc này, đôi tân hôn trước tiên phải là những người lắng nghe và đón nhận Lời
Chúa đang công bố cho mình[24].
Cha xứ nhắc nhớ:
Các
bạn cần tránh coi việc đọc Lời Chúa là cơ
hội để tìm kiếm những bức ảnh cho mình. Có lẽ thấy được điều này, tài liệu nhắc
nhớ vai trò của đôi tân hôn lúc này là tập trung lắng nghe Lời của Chúa bởi vì
Lời Chúa được công bố trên và trước hết là vì họ và cho họ.
GHI NHỚ:
1. H. Khi quyết định
tiến tới hôn nhân, đôi bạn cần làm những thủ tục nào?
T.
Khi quyết định tiến tới hôn nhân, đôi bạn cần trình cha xứ để làm những việc
này:
- Một là làm tờ khai
hôn phối.
- Hai là được hướng
dẫn về giáo lý hôn nhân.
- Ba là rao hôn
phối.
- Bốn là quyết định
ngày cử hành hôn lễ.
2. H. Về mặt dân sự,
cần làm thủ tục nào?
T. Về mặt dân sự,
cần đăng ký kết hôn tại Uỷ ban Nhân Dân Phường hoặc Xã nơi cư ngụ.
3. H. Vì sao Hội
Thánh buộc các tín hữu cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh?
T. Hội Thánh buộc
các tín hữu cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh vì bốn lý do này:
- Một là vì Bí tích
Hôn phối là hành vi phụng vu.ï
- Hai là vì Hôn nhân
là một bậc sống trong Hội Thánh.
- Ba là vì cần phải
có sự chắc chắén về sự kết hôn nên buộc phải có người làm chứng.
- Bốn là vì việc công
khai bày tỏ sự ưng thuận sẽ giúp hai vợ chồng sống chung thuỷ với nhau.
4. H. Nghi thức bí
tích hôn phối gồm mấy phần?
T. Nghi thức Bí tích
Hôn phối gồm ba phần:
- Một là thẩm vấn
đôi hôn phối về sự tự do, về việc yêu thương và tôn trọng nhau và về việc đón
nhận con cái Chúa ban.
- Hai là trao đổi
lời thề hứa.
- Ba là làm phép và
trao nhẫn cưới.
GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Xin anh chị
đọc và chia sẻ với nhau lời thề hứa mà anh chị sẽ trao đổi với nhau:
“Tôi là T., nhận
anh (em) T. làm chồng (vợ), và hứa giữ lòng chung
thủy với anh (em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm
đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng anh (em) suốt
đời tôi”.
2. Xin anh chị đọc
lại lời cầu nguyện cho đôi tân hôn trong Thánh lễ (sau Kinh Lạy Cha). Hội Thánh
cầu nguyện cho họ những gì? Anh chị sẽ cố gắng thực hiện những điều đó trong
đời sống hôn nhân và gia đình của mình như thế nào?
CẦU NGUYỆN:
Lạy
Chúa, khi tạo dựng loài người có nam có nữ, Chúa đã muốn cho cả hai nên một.
Xin Chúa thương tuôn đổ ơn phúc dồi dào trên các đôi vợ chồng, giúp họ sống
trọn tình vẹn nghĩa với nhau và biết mở rộng tình yêu thương đến mọi người, để
làm chứng cho tình yêu thương vô biên của Chúa. Amen.
[1] x. Luật Hôn nhân và Gia đình điều 11-12
[2] Luật Hôn nhân và Gia đình điều 13 §1
[3] Luật Hôn nhân và Gia đình điều 14
[4] x. Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hoá Sử Cương (tái bản), Nhà
xuất bản Đồng Tháp, 1998, trang 215
[5] x. GL 1063; 1067
[6] x. CBHP 50-51
[7] GLHT 1632
[8] x. GL 1066
[9] x. CBHP 52
[10] GL 1065 §1
[11] GL 1065 §2; GLHT 1622
[12] GL 1067
[13] GL 1063-1070
[14] GL 1115; 1118
[15] GL 1108
[16] GL 1108-1110
[17] GL 1108; 1111
[18] GL 1112
[19] GL 1121
[20] GL 1122
[21] GĐ 57
[22] GLHT 1621
[23] GLHT 1624
[24] x. CBHP 68
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét