Các tín hữu chuyên cần tham dự những buổi giáo lý của các
tông đồ,
hiệp thông huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện.
Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ,
bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ (Cv 2,42.46).
Đức Kitô đã để lại
cho Hội Thánh những bí tích, là những dấu chỉ hữu hình diễn tả và đem lại ơn
thánh cho các tín hữu. Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng
thân thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa[1].
Bảy Bí tích liên
quan đến các giai đoạn và các thời điểm quan trọng của đời sống người Kitô hữu:
Bí tích sinh ra (Rửa tội), lớn lên (Thêm sức, Thánh Thể), chữa lành (Hoà giải,
Xức dầu) và lãnh nhận sứ mạng xây dựng cộng đoàn (Truyền chức, Hôn phối). Nhờ
lãnh nhận các bí tích, đời sống Kitô hữu được nuôi dưỡng và mỗi ngày một tăng
trưởng hơn.
1. Hôn phối và Rửa tội
Nhờ bí tích Rửa tội,
người Kitô hữu được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, làm chi thể Đức Kitô và
Đền thờ Chúa Thánh Thần[2].
Họ được tháp nhập vào Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô và là Gia Đình con cái
Thiên Chúa. Như vậy, bí tích Rửa tội chính là cánh cửa dẫn vào đời sống hiệp
thông: hiệp thông với nhau và Hiệp thông với Thiên Chúa.
Cha xứ giải thích:
Cách gọi “Bí tích rửa tội,” dễ dẫn đến hiểu lầm về hiệu quả nó chỉ tha tội nguyên tổ (do Adam và Eva)
và tội riêng của mỗi người (những
người lãnh nhận bí tích Rửa tội là người lớn). Trong khi nó không chỉ tha tội
mà còn thần hóa con người để con người nên con Thiên Chúa, đồng hình đồng dạng
với Đức Kitô. Do đó, cách gọi bí tích Thánh Tẩy có lẽ diễn tả được cả hai chiều
kích này: THA (TẨY) TỘI VÀ THÁNH HÓA.
HỘI THÁNH được ví như MỘT THÂN THỂ có CHÚA KITÔ là Đầu và tất cả các
thành viên trong Hội Thánh là chi thể trong thân thể đó và do đó, mỗi chi thể
đều có tầm quan trọng riêng của nó và chỉ tồn tại trong sự liên kết với các chi
thể khác. Trước đó, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho để diễn tả mối liên hệ
giữa Ngài với những môn đệ của mình: “Thầy là cây nho, anh em là ngành; ngành
nào kết hợp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái…”. Chúa Thánh Thần chính là sức mạnh,
quyền năng và tình yêu liên kết mọi người tín hữu với Chúa Kitô và giữa họ với
nhau.
Bí tích Hôn phối
tăng cường và cụ thể hoá sự hiệp thông mà bí tích Rửa tội đã đem lại.
1.1. Đối với hai vợ chồng:
Nhờ bí tích Hôn
phối, đôi bạn được thông phần giao ước tình yêu của Đức Kitô và Hội
Thánh: “Bởi thế, người ta sẽ lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình
và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức
Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,31-32). Như vậy, lòng trung thành và tình
yêu, mà đôi bạn trao cho nhau trong giao ước Hôn nhân, cũng chính là lòng trung
thành trong đức tin và đức mến, mà mỗi người đã tuyên hứa khi chịu phép Rửa tội.
Vì thế, khi cùng sống bí tích Rửa tội, họ cũng thực hiện chính lời giao ước Hôn
nhân của mình.
Cha xứ giải thích:
Mối liên kết với Chúa Kitô, Hội Thánh và với người khác được nâng tầm cao
hơn qua lời cam kết sống ơn gọi hôn nhân gia đình của đôi bạn. Với Chúa Kitô,
mối liên kết của đôi bạn được cụ thể hóa và nâng tầm cao qua việc họ sống trọn
vẹn ơn gọi hôn nhân gia đinh bởi tình yêu của họ biểu lộ tình yêu của Chúa Kitô
với Hội Thánh. Với Hội Thánh, gia đình không chỉ biểu lộ Hội Thánh mà gia đình
còn là con đường của Hội Thánh đến với muôn dân. Mối liên kết giữa họ với nhau
giờ đây là sự liên kết trong đời sống vợ chồng – một sự liên kết không chỉ
trong đức tin, tình yêu và niềm trông cậy nhưng còn trong chính cuộc sống hôn
nhân gia đình.
1.2. Đối với con cái:
Bí tích Rửa tội rất
cần cho được sống đời đời: “Ai không sinh lại bởi nước và Thánh Thần, thì không
thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5). Phép Rửa tha tội tổ tông và cả những
tội riêng ta phạm trước đó, ban ơn thánh hoá, sinh ta làm con Thiên Chúa và con
Hội Thánh. Do đó, hai vợ chồng cần đặc biệt quan tâm thực hiện việc Rửa tội cho
con cái tùy theo các trường hợp sau đây:
Cha xứ giải thích:
Có người đặt ra vấn đề “Tại sao phải rửa tội cho trẻ nhỏ? Tại sao không
để đến tuổi trưởng thành để cô ấy hoặc anh ấy có quyền tự do quyết định? Cha mẹ
có quyền làm thế không? Làm như vậy có xúc phạm đến tự do của con cái không?
Một lập luận nghe có vẻ có lý nhưng không có sức thuyết phục. Vậy tại sao cha
mẹ không để con mình đến tuổi trưởng thành rồi hỏi con mình có muốn đi học
không? Và nhiều lãnh vực khác nữa mà cha mẹ cũng phải chờ con đến tuổi trưởng
thành để hỏi hay sao? Trong tư cách là cha mẹ, những người có trách nhiệm nuôi
dạy con cái. Cha mẹ đủ tư cách và có quyền để quyết định thay con mình những
vấn đề hệ trọng và quan trọng đối với cuộc sống tương lai của con mình. Trong
đức tin, việc cho các trẻ em được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy là vô cùng cần
thiết và quan trọng vì các em được tha tội nguyên tổ, được gọi và thực sự là
Con Thiên Chúa.
a) Trường hợp thông
thường:
Khi cháu bé được
chừng một tháng, cha mẹ và người đỡ đầu đưa cháu đến nhà thờ xin cha xứ rửa tội
cho. Đây là dịp tốt để mọi người ý thức và sống ơn gọi Kitô hữu của mình, nên
rất khuyến khích mọi người trong gia đình và trong giáo xứ tham dự. Có thể tổ
chức việc mừng “đầy tháng” cho con vào ngày Rửa tội.
Cha xứ dặn dò:
Để được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, cha mẹ cần cung cấp những thông
tin sau đây: tên thánh, tên họ của trẻ cần được rửa tội; cũng thêm ngày sinh,
nơi sinh, tên họ và tên thánh cha, mẹ và người đỡ đầu.
b) Trường hợp nguy
tử:
Nếu con chưa được
rửa tội mà đau nặng, thì cha mẹ cần lo liệu cho con được rửa tội ngay, bằng
cách:
- Hoặc chính cha hay
mẹ, hoặc nhờ người khác, rửa tội cho con như sau: lấy nước lã đổ trên trán con,
vừa đổ vừa đọc: “T. (tên thánh và tên gọi), cha (mẹ) rửa con: nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần”. Khi làm việc này cần làm theo ý của Hội Thánh.
- Ghi vào sổ gia
đình Công giáo và sớm trình cho cha xứ.
- Khi con khỏe lại,
nên đưa con tới cha xứ xin lãnh nhận các nghi thức bổ túc.
Cha xứ giải thích:
Trong một số bản văn, người ta gọi là phép bù. Nghi thức của bí tích Thánh
Tẩy gồm phần chính yếu là lời đọc “cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần”, kèm theo việc đổ nước trên đầu người được rửa tội. Những nghi thức quảng
diễn như xức dầu dự tòng, dầu thánh, mặc áo trắng hay trao nến sáng…
c) Trường hợp tối
khẩn:
- Khi khó sinh: Mọi
bào thai phải được rửa tội dù nó được bao nhiêu tháng. Nếu bào thai chắc chắn
còn sống, thì rửa tội cách tuyệt đối: “...., cha (mẹ) rửa con: nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần”.
- Nếu không biết rõ
thai còn sống hay chết, thì rửa tội hồ nghi: “...., nếu con còn sống,
cha (mẹ) rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
- Khi sẩy thai, thì
xé bọc thai rồi đổ nước hoặc dìm vào nước, và đọc: “Nếu thành, ta rửa
con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
2. Hôn phối và Thêm sức
Bí tích Thêm sức làm
cho người tín hữu được đầy ơn Chúa Thánh Thần, để trở nên chứng tá đức tin, có
nhiệm vụ bảo vệ và mở mang Nước Chúa.
Khi lãnh bí tích Hôn
phối, đôi bạn trở thành nhân chứng cho tình yêu tự hiến của Đức Kitô và xây
dựng Nước Chúa trong chính bậc sống hôn nhân của mình. Những hy sinh, đau khổ
và thử thách trong cuộc sống chung, sự giáo dục con cái nên người con Chúa, đều
là những công việc quý giá góp phần mở mang Nước Chúa. Chính ơn sức mạnh của
Chúa Thánh Thần sẽ giúp đôi bạn chu toàn những nhiệm vụ trên. Nơi bí tích Hôn
phối, “chính Chúa Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của hai vợ chồng, là nguồn mạch
tình yêu của họ, là sức mạnh giúp họ chung thuỷ[3]“.
Đối với gia đình
Kitô hữu, sống bí tích Thêm sức là:
- Quý trọng ơn Chúa
Thánh Thần, quan tâm lo cho mọi người trong gia đình lãnh nhận bí tích Thêm
sức.
- Liệu cho chính gia
đình mình có một kế hoạch truyền giáo, quan tâm thực hiện và thường xuyên kiểm
điểm để thực hiện tốt hơn.
Cha xứ giải thích: Những đặc ân của Chúa Thánh Thần
7 Ơn Chúa Thánh Thần:
|
|
1. Ơn Khôn Ngoan
|
Giúp ta phân biệt điều
phải, điều trái.
|
2. Ơn Hiểu Biết
|
Giúp ta hiểu biết sâu
xa hơn những điều Chúa và Giáo Hội dạy.
|
3. Ơn Biết Lo Liệu
|
Giúp ta giải quyết mọi
khó khăn trong đời sống.
|
4. Ơn Sức Mạnh
|
Giúp ta chu toàn việc
bổn phận và vượt qua mọi khó khăn.
|
5. Ơn Thông Minh
|
Giúp ta nhận ra thánh ý
Chúa.
|
6. Ơn Ðạo Ðức
|
Giúp ta tin yêu Chúa và
giúp đỡ anh em.
|
7. Ơn Kính Sợ
Thiên Chúa
|
Giúp ta tôn kính sự
công bằng và quyền phép Chúa và sợ làm phiền lòng Ngài.
|
3. Hôn phối và Hoà giải
Trước khi lãnh bí
tích Hôn phối, Hội Thánh khuyên đôi bạn xưng tội để tâm hồn được trong sạch,
xứng đáng đón nhận dồi dào ân huệ Chúa ban trong ngày thành hôn.
Suốt quá trình chung
sống, đôi bạn sẽ không sao tránh hết mọi khuyết điểm, sai sót. Những sai sót về
tình yêu, về lòng trung thành, về đức nhẫn nại... có thể làm họ chán nản. Bấy
giờ, bí tích Hoà giải sẽ xóa đi những lỗi lầm ấy và ban nhiều ơn giúp đôi bạn
phấn khởi vững bước trong cuộc sống hôn nhân, với nhiều cố gắng mới. Cũng nhờ bí
tích Hoà giải, họ ý thức được những buồn phiền đã gây ra cho nhau, từ đó trở
nên xả kỷ và quảng đại hơn; họ cũng phấn đấu sống hoà hợp với các phần tử khác
trong gia đình và lối xóm. Bí tích Hoà giải mời gọi gia đình luôn hoán cải theo
Tin Mừng.[4]
Người sạch sẽ thay
quần áo trước khi bẩn và giặt ủi liền sau khi thay. Cũng thế, người tín hữu
tốt, dù không có sai lỗi gì trầm trọng, vẫn cố gắng xưng tội thường xuyên,
khoảng hai hay ba tháng một lần. Đàng khác, không chờ đến ngày xưng tội mới xét
mình, nhưng nên kiểm điểm đời sống hằng ngày: Xét mình mỗi tối, để đáp lại
tiếng Chúa cách quảng đại hơn. Muốn chiến thắng tội lỗi, cần dứt khoát ngay từ
đầu, tránh xa các dịp tội và loại trừ cả những lệch lạc nhỏ bé nhất, ngay khi
nó chỉ mới là một ý tưởng manh nha.
Cha xứ giải thích:
Chúa Giêsu nói về sự cắt tỉa như một điều kiện cần thiết để sinh nhiều
hoa trái. Bí tích Hôn phối là khởi điểm cho hành trình nên một và do đó, đôi
bạn cố gắng chấp nhận cắt tỉa mỗi ngày để họ nên một với nhau mỗi ngày một hơn.
Bí tích Hòa giải cần phải được đôi hôn phối thấy như một sự cắt tỉa của chính Lời
của Chúa Kitô để họ sinh hoa trái nhiều hơn hay đúng hơn để mỗi ngày họ hòa hợp
và nên một cách trọn vẹn hơn.
4. Hôn phối và Thánh Thể
Ơn vô giá mà đôi bạn
được hưởng trong thánh lễ Hôn nhân là Hiệp lễ. Lúc ấy, hai vợ chồng được tham
dự vào chính giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Nhờ kết hợp mật
thiết với Chúa Giêsu, họ được Ngài làm bạn đồng hành, được Ngài trợ lực suốt
cuộc đời để họ nên một trong Ngài và để họ có thể yêu nhau, không phải bằng một
tình yêu đầy giới hạn của mình, nhưng bằng chính tình yêu vô biên của Ngài.
Bí tích Thánh Thể là
nguồn mạch tình yêu, mời gọi vợ chồng trở nên một thân thể duy nhất và chia sẻ
cho nhau. Năng đến với bí tích Thánh Thể, vợ chồng sẽ được Chúa Giêsu biến đổi
để trở nên tấm bánh tình yêu bẻ ra trao tặng cho nhau: tấm bánh của sự sống,
của niềm vui, của tha thứ và của sự tâm đầu ý hợp. Bí tích Thánh Thể chính là
sức sống nuôi dưỡng, củng cố và đổi mới tình yêu của đời sống hôn nhân và gia
đình. Nhờ tình yêu siêu nhiên ấy, họ dễ lướt thắng những bực bội, buồn phiền. Nhờ thánh lễ, cuộc sống hằng ngày của
gia đình trở thành “hy lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa[5]“.
Để được khoẻ mạnh,
chẳng những phải tránh bệnh tật, mà còn phải ăn uống đầy đủ và tập thể dục. Đối
với người tín hữu, dinh dưỡng là năng rước lễ và chăm đọc Lời Chúa, tập thể dục
là cầu nguyện sâu xa và kiểm điểm đời sống hằng ngày.
Cha xứ giải thích:
Bí tích Thánh Thể với bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể là nguồn sức mạnh
thần thiêng giúp đôi bạn được liên kết với nhau trong Chúa qua việc nghe và
thực hành Lời Chúa. Liên kết này là đặc biệt bởi khi ta rước Thánh Thể Chúa, ta
được hiệp nhất cách đặc biệt thâm sâu với Thiên Chúa và anh em.
5. Hôn phối và Truyền Chức thánh
Hôn phối và Truyền
Chức thánh là hai bí tích phục vụ cộng đoàn do chính Đức Kitô thiết lập, là Hội
Thánh.
Bí tích Hôn Phối gia
tăng số con cái trong Hội Thánh, bí tích Truyền Chức tuyển chọn các tác viên
phục vụ Hội Thánh. Chính ơn gọi làm linh mục được gieo mầm từ trong gia đình,
nên gia đình được gọi là “Chủng viện sơ khởi[6]“.
Hội Thánh ước mong
rằng không những các đôi vợ chồng quan tâm nâng đỡ các ơn gọi linh mục và tu
sĩ, mà còn tha thiết muốn dâng con cái mình làm việc tông đồ phụng sự Chúa. Do
đó, Công đồng Vaticanô II khuyên: “Cha mẹ hãy thận trọng giúp đỡ con cái lựa
chọn ơn gọi. Nếu thấy chúng có ơn thiên triệu, họ hãy thận trọng nuôi dưỡng ơn
thiên triệu đó[7]“.
Trong phạm vi gia
đình, cha mẹ có trách nhiệm thánh hoá con cái, và đáp lại chính con cái cũng
góp phần thánh hoá cha mẹ. Trong phạm vi giáo xứ, các chủ chăn có trách nhiệm
thánh hoá giáo dân, và đáp lại chính giáo dân cũng góp phần thánh hoá các chủ
chăn (Ga 17,19). Giáo dân có thể thực hiện công việc này bằng cách:
- Tích cực cộng tác
với các chủ chăn trong việc xây dựng Hội Thánh, cách riêng trong các sáng kiến
truyền giáo.
- Cảm thông những
giới hạn và yếu đuối của các ngài.
- Cầu nguyện cho các
ngài.
- Nâng đỡ các ngài
về tinh thần và vật chất.
- Khiêm tốn góp ý
xây dựng cho các ngài trong tình bác ái và liên đới trách nhiệm.
6. Hôn phối và Xức dầu bệnh nhân
Trong ngày cưới, đôi
bạn hứa chung thủy với nhau cho đến chết. Cái chết niêm ấn lòng trung tín trọn
vẹn của họ. Trước biên giới sự sống và sự chết, bí tích Xức dầu giúp người tín
hữu kết thúc đoạn đường lữ hành và sẵn sàng bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Thánh
Thể lúc ấy là của ăn đàng giúp người tín hữu đủ sức đi tới Bàn Tiệc muôn đời
của giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh khải hoàn. Trên giường hấp
hối, đôi bạn thấu triệt được vẻ cao đẹp cuộc sống chung đầy ý nghĩa của mình.
Đó là cuộc đồng hành với Đức Kitô, là thời gian thử thách và tinh luyện tình
yêu, là đoạn đường dẫn tới cuộc sống vĩnh cửu mai sau đầy hạnh phúc.
Hãy liệu cho bệnh
nhân được lãnh nhận bí tích Xức dầu lúc còn tỉnh táo. Những người thân yêu nên
có mặt trong giờ phút ấy để cầu nguyện cho bệnh nhân; để hỗ trợ tâm lý cho bệnh
nhân, vì lúc ấy bệnh nhân thường rất sợ cô độc.
Bí tích Xức dầu cũng
nhắc nhớ đến sự hiện diện của những người cao niên trong gia đình. Đừng coi sự hiện
diện của họ như một gánh nặng, nhưng hãy coi đó là một ơn Chúa: người già là
hiện thân của kinh nghiệm quá khứ, có thể giúp giới trẻ nhận ra lẽ khôn ngoan
trong cuộc sống. Đồng thời, người già cũng dễ mang tâm trạng cô đơn, sợ bị bỏ
rơi. Do đó, cần quan tâm chăm sóc những người già cả trong gia đình mình cũng
như trong lối xóm.
Cha xứ giải thích:
Cần tránh quan niệm cho rằng bí tích Xức dầu chỉ dành cho những người
sắp chết như tên gọi trước đây của nó: “Bí tích xức dầu cuối cùng”. Đúng hơn,
nó được gọi là bí tích Xức dầu bệnh nhân để ban ân sủng trợ lực họ trong cuộc
chiến với bệnh tật và trung thành với Chúa cho đến giây phút cuối cùng. Bí tích
Xức dầu bệnh nhân thường đi kèm với việc trao của ăn đàng như lương thực thiêng
liêng cho chính bệnh nhân. Bởi đó, đừng chờ đợi đến giây phút hâp hối hay lúc
bệnh nhân đã mất hết ý thức mới gọi cha xức dầu. Hãy liệu để bệnh nhân được
chuẩn bị tốt và tham dự cách linh động tích cực và sốt sắng trong cử hành bí
tích cho họ. Người giáo dân có quyền xin lãnh nhận bí tích Xức dầu khi thấy
mình có nguy cơ đối diện với cái chết như chuẩn bị cho một chuyến đi xa, một ca
phẫu thuật nguy hiểm hay bước vào một trận chiến nguy hiểm…
GHI NHỚ:
1. H. Các bí tích
giúp ích gì cho đời sống Hôn nhân và gia đình?
T. Các bí tích, đặc
biệt là bí tích Hôn phối, Thánh Thể và Hoà giải thánh hoá tình yêu vợ chồng,
ban nhiều ơn sủng giúp họ chu toàn trách nhiệm đối với nhau và đối với con cái.
2. H. Ai được quyền
cử hành bí tích Rửa tội?
T. Bình thường là
Giám mục, Linh mục và phó tế, nhưng khi khẩn cấp thì bất cứ ai cũng có thể cử
hành, miễn là làm theo ý muốn và cách thức của Hội Thánh.
3. H. Trong trường
hợp khẩn cấp, phải rửa tội như thế nào?
T. Phải lấy nước lã,
là nước tự nhiên, không pha thứ gì vào, như nước sông, nước biển, nước giếng,
nước mưa, rồi đổ trên đầu kẻ chịu phép Rửa tội và đọc: (tên thánh) ta rửa con,
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
4. H. Gia đình Kitô
hữu sống bí tích Thêm sức như thế nào?
T. Gia đình Kitô hữu
sống bí tích Thêm sức bằng cách lo cho mọi người nhiệt thành sống đức tin, để
trở nên nhân chứng của Đức Kitô và góp phần xây dựng Hội Thánh.
5.
H. Vì sao gia đình Kitô hữu phải năng lãnh nhận bí tích Hoà giải?
T. Nhờ bí tích Hoà
giải, mọi người nhận ra những lỗi phạm của mình và đón nhận lòng khoan dung của
Thiên Chúa, nhờ đó sẽ dễ sống hoà hợp và tha thứ cho nhau.
6.
H. Vì sao gia đình Kitô hữu phải năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể?
T. Vì bí tích Thánh
Thể là nguồn mạch tình yêu và là sức sống nuôi dưỡng, củng cố và đổi mới tình
yêu của đời sống hôn nhân và gia đình.
7. H. Cha mẹ có bổn
phận nào đối với ơn thiên triệu của con cái?
T. Cha mẹ phải thận
trọng giúp đỡ con cái nhận biết ơn gọi. Nếu thấy chúng có ơn thiên triệu thì
phải lo nuôi dưỡng ơn thiên triệu ấy.
8. H. Bí tích Xức
dầu bệnh nhân có liên hệ nào đối với đời sống hôn nhân và gia đình?
T. Bí tích Xức dầu
bệnh nhân nhắc nhở ta quan tâm đến những người đau yếu, bằng cách lo cho họ
lãnh nhận bí tích này, để được ơn Chúa nâng đỡ. Đồng thời quan tâm đến những
người già cả trong gia đình và lối xóm, bằng cách giúp đỡ và chăm sóc họ, đặc
biệt là những người neo đơn.
GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Bí tích Hoà giải
và bí tích Thánh Thể đem lại cho gia đình anh chị những ơn ích nào?
2. Tương quan giữa
bí tích Rửa tội và bí tích Hôn phối?
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, Chúa đã
dùng bí tích Hôn phối liên kết chúng con nên duyên vợ chồng. Xin thương đổ ơn
thánh Chúa xuống trên gia đình chúng con, để chúng con trở thành dấu chỉ sự
hiện diện của Chúa cho nhau và cho mọi người. Amen.
[1] PV 59
[2] GLHT 1265
[3] GLHT 1624
[4] x. GĐ 58
[5] GĐ 59
[6] ĐTLM 2
[7] TĐ 11
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét