Hãy dùng những bài
thánh vịnh, thánh thi
và thánh ca do Thần Khí linh hứng mà đối đáp với nhau
và ca tụng Chúa hết lòng anh em.
Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự,
hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Ep 5,19-20).
Gia đình Kitô hữu được gọi là Hội Thánh tại gia vì gia đình là nơi
đặc biệt diễn tả sự hiệp thông trong Hội Thánh: “Gia đình Kitô giáo bày tỏ và
thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh vì lẽ đó phải được coi
là một Hội Thánh tại gia, là một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến. Gia
đình Kitô giáo là một hiệp thông nhân vị là dấu chỉ và hình ảnh của sự hiệp
thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần[1]“.
Sự hiệp thông trong gia đình dẫn đến sự gặp gỡ Thiên Chúa, đồng
thời việc gặp gỡ Thiên Chúa sẽ nối kết gia đình bền chặt hơn. Trong Tông huấn
Gia đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi gia đình là “cộng đồng đối thoại
với Thiên Chúa”. Gia đình được lôi cuốn vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa bằng
việc Lắng nghe Lời Chúa, bằng việc cầu nguyện chung cũng như cầu nguyện riêng,
bằng việc lãnh nhận các bí tích, đặc
biệt là bí tích Thánh Thể và bí tích Hoà giải.
Thư chung của Hội Đồng Giám Mục VN năm 1980 cũng nhắn nhủ: “Anh
chị em hãy tin vào ơn Chúa Thánh Thần đã được đổ xuống trong lòng để nuôi dưỡng
đời sống cầu nguyện của anh chị em: cầu nguyện riêng, cầu nguyện chung trong
gia đình và trong xứ đạo. Và nhất là anh chị em hãy đào sâu đức tin của mình
bằng việc học và dạy giáo lý ngay trong gia đình của mình”.
1. Cầu nguyện là
gì?
Cầu nguyện chính là cuộc gặp gỡ và đối thoại thân mật với Thiên
Chúa. Hình ảnh cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ
Samaria bên bờ giếng Giacop (x. Ga 4,1-20) là một hình ảnh tuyệt vời về cầu
nguyện. Chính Chúa Giêsu đang khát và đã tìm đến gặp gỡ, ngỏ lời trước với con
người, Ngài đã khơi dậy nơi cõi lòng con người nỗi khát khao sâu thẳm, và giúp
con người khám phá ra Ngài là Đấng duy nhất có thể lắp đầy nỗi khao khát đó.
Cầu nguyện là lời đáp trả đức tin và tình yêu của con người trước
lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Cầu nguyện còn là sự đặt mình trước sự hiện diện
của Thiên Chúa, để đi sâu vào mối hiệp thông với Ba Ngôi. Từ sự xác tín trên,
các nhà tu đức đã định nghĩa cầu nguyện như sau:
- Cầu nguyện là nâng hồn lên Chúa hay cầu xin Ngài ban cho những
ơn cần thiết [2].
- Cầu nguyện là sự hứng khởi của tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng
về trời cao, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như lúc hân
hoan [3].
Cha xứ giải thích:
Cầu nguyện là cuộc gặp gỡ
của ta với Thiên Chúa – Đấng đang sống, đang thấy và đang nghe chúng ta. Thiên
Chúa của Kitô giáo không phải là một Ý TƯỞNG cũng không phải chỉ là NHỮNG BỨC
TƯỢNG VÔ HỒN “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” nhưng là một ngôi vị,
cách đặc biệt trong Đức Kitô “Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta”.
Cầu nguyện là một cuộc đối
thoại nghĩa là ta nói với Thiên Chúa và nghe Thiên Chúa nói với ta do đó, chúng
ta cần có khoảng thinh lặng trong cầu nguyện để nghe Chúa nói với chúng ta.
Chúng ta có thể nghe Chúa nói với chúng ta qua Kinh Thánh, qua thiên nhiên vũ
trụ, qua tiếng lương tâm, qua các biến cố xảy ra trên thế giới và trong cuộc
sống hàng ngày của ta; Chúng ta cũng nói với Chúa về lòng tin, tình yêu và niềm
hy vọng của ta vào Chúa. Ta cũng có thể nói với Chúa những mong ước của ta cho
chính mình, cho người khác nhất là những người nghèo khổ bất hạnh. Chúng ta
cũng có thể nói với Chúa những lỗi lầm của mình để ngài cảm thông, xót thương
và tha thứ.
Không nhất thiết phải là
những nơi thờ tự như nhà thờ, nhà nguyện hay phòng chầu. Chúng ta có thể nói
với Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Chỉ cần chúng ta dừng lại trong giây lát để
nghĩ về Chúa, nói với Chúa một lời nguyện ngắn “lạy Chúa con yêu mến Chúa” –
đây cũng là lời cầu nguyện đẹp.
2. Phải cầu nguyện
như thế nào?
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo cầu nguyện, là vị Thầy dạy ta
cách cầu nguyện. Ngài thường cầu nguyện nơi vắng vẻ (x. Lc 5,16). Kinh nguyện
của Ngài đầy tâm tình gắn bó yêu thương, vâng phục thánh ý Chúa Cha, dù phải
chấp nhận Thập Giá (x. Mt 26,39), và tuyệt đối tin tưởng là mình sẽ được nhận
lời. Ngài còn kêu gọi các môn đệ tỉnh thức cầu nguyện (x. Lc 22,40) và muốn họ
dâng những lời cầu khẩn lên Thiên Chúa nhân danh Ngài (x. Mt 18,19-20). Chúa
Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện với một tâm hồn trong sạch, một đức tin sống
động và kiên trì, một sự dạn dĩ của người con.
2.1. Kiên trì cầu nguyện
Cầu nguyện kiên trì, không sờn lòng nản chí, chắc chắn sẽ được
Thiên Chúa nhận lời. Chẳng hạn như bà goá kêu oan, đòi ông quan toà phân xử;
cuối cùng ông cũng phải giải quyết (x. Lc 18,1-8). “Vậy
chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người tuyển chọn, ngày đêm hằng
kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn?” (18,7). Hay như người kia
quấy rầy bạn mình vào lúc đêm khuya vẫn có được tất cả những thứ gì anh ta cần
dùng (x. Lc 11,5-8). Chúa Giêsu khẳng định: “Hễ
ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ sẽ mở cho” (Lc 11,10). Và
Thiên Chúa còn ban cho hơn cả lòng ta mong ước vì Cha trên trời còn rộng lượng
hơn cả người cha trần gian; đó là ban chính Thánh Thần của Ngài cho chúng
ta (x. Mt 7,7-11; Lc 11,11-13).
Cha xứ giải thích:
Thiên Chúa muốn chúng ta
kiên trì trong cầu nguyện là để lưu giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Chính
khi ta kiên trì trong cầu nguyện, lòng tin và niềm cậy trông chúng ta gia tăng
và nhờ đó ta được Chúa thánh hóa. Mẹ Thánh Monica đã nên thánh khi cầu nguyện
cho con mình suốt 18 năm trường. Cầu nguyện kiên trì giúp chúng ta chiến thắng
những cám dỗ của ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt.
2.2. Khiêm tốn cầu nguyện
Khi cầu nguyện, ta phải cầu nguyện bằng tất cả con người của
mình: lời nói và cử chỉ, đặc biệt là tấm lòng. Tấm
lòng chính là nơi sâu kín của con người, là nơi phát sinh mọi quyết định và gặp
gỡ. Khiêm nhường và thống hối là một tâm tình căn bản trong
khi cầu nguyện (Tv 130,14), vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải
(Rm 8,26). Khiêm nhường là tâm tình phải có để đón nhận được ơn cầu nguyện vì
trước mặt Chúa, con người chỉ là kẻ van xin[4].
Cầu nguyện trong sự hạ mình là cách thức dễ đánh động lòng Thiên
Chúa nhất. Dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện cho thấy
Thiên Chúa không đoái hoài đến những thành tích đáng nể của người Pharisêu chỉ
vì ông hay khoe khoang và coi khinh người khác (x. Lc
18,9-14; 7,6-10). Cầu nguyện khiêm tốn để sám hối về những lầm lỗi, và tạ
ơn về tất cả những gì mình đã được lãnh nhận, và đó là điều làm đẹp lòng Thiên
Chúa nhất (x. Lc 10,21).
Cầu nguyện còn phải đi đôi với nỗ lực hòa giải và lòng yêu
thương, kể cả kẻ thù và người bách hại mình; kinh nguyện phải phát xuất từ
đáy lòng với tâm hồn thanh khiết và ước mong tìm kiếm Nước Thiên Chúa trên hết
mọi sự.
Cha xứ giải thích:
Khiêm tốn là ý thức sự bé
nhỏ của mình trước Thiên Chúa. Kẻ khó nghèo luôn có sự khao khát lớn lao để
được lãnh nhận, bảo vệ, thương xót và tha thứ. Người nghèo được Thiên Chúa yêu
thương và chăm sóc cách đặc biệt. Chúa Giêsu cho thấy Ngài có một tình thương
đặc biệt đối với người nghèo, những người bị loại ra bên lề xã hội.
Người cầu nguyện phải xác
tín rằng Thiên Chúa biết rõ chiều sâu trong tâm hồn của mỗi chúng ta và vì thế,
chúng ta đừng quá quan tâm tới những biểu hiện bên ngoài, hay đúng hơn, những
hành động cử chỉ bên ngoài chỉ có giá trị khi giúp chúng ta khơi động hay biểu
lộ tâm tình bên trong.
3. Những nguồn
mạch của cầu nguyện
Trong đời sống Kitô hữu, có những nguồn mạch, ở đó Đức Kitô đang
đợi chờ để ban Thánh Thần cho ta[5].
Sau đây là một số nguồn mạch chính yếu:
3.1. Lời Chúa
Công đồng Vaticanô II đã khuyến khích các Kitô hữu: “Mọi người
cũng nên nhớ rằng kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối
thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì “chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu
nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh”[6].
Cha xứ giải thích:
Chính Chúa Giêsu nói với
chúng ta qua Lời của Ngài, do đó, đọc lời Chúa cách chậm rãi và suy niệm trong
thinh lặng, chúng ta sẽ nghe Chúa nói với chúng ta. Chúa
Giêsu nói với các tông đồ khi liên hệ đến Thánh Thần “Ngài sẽ dạy các con mọi
điều và sẽ nhắc nhở
cho anh em biết những gì Thầy đã nói với các con”. Như thế, Thánh Thần giúp ta
hiểu được Lời của Chúa. Ngài cũng giúp chúng ta cầu nguyện bởi chính “Thánh
Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiêng rên siết khôn tả”. Cuối cùng, Thánh
Thần giúp chúng ta đi sâu hơn vào mối tương quan với Thiên Chúa bởi vì “trong
Thánh Thần, chúng ta mới có thể gọi Chúa là Cha và tuyên xưng Chúa Kitô là Chúa”.
3.2. Phụng vụ của Hội Thánh
Kinh nguyện tiếp nhận Phụng vụ và đồng hóa với Phụng Vụ trong khi
và sau khi được cử hành. Dù con người cầu nguyện nơi kín đáo (Mt 6, 6), lời
nguyện của họ vẫn là lời kinh của Hội Thánh, là sự hiệp thông với Ba Ngôi Chí
Thánh[7].
Cha xứ giải thích:
Phụng vụ là việc công khai
của toàn thể Hội Thánh mang đậm dấu ấn Chúa Kitô qua Lời của Ngài, Thánh Thể
được trao ban và đón nhận trong cộng đoàn Hội Thánh. Phụng vụ mang đến hai hiệu
quả chính: tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và thánh hóa nhân loại.
3.3. Các nhân đức đối thần
Đức tin giúp ta đón nhận Chúa xuyên qua các dấu chỉ về sự
hiện diện thần linh, tìm kiếm và trông mong Thánh Nhan Chúa, lắng nghe và suy
niệm lời Ngài.
Cha xứ giải thích:
Như trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta vẫn
tin tưởng vào người khác như bệnh nhân tin vào bác sĩ, học trò tin vào thầy cô…
Tại sao chúng ta không tin vào Thiên Chúa qua Hội Thánh? Do đó, tin là chấp
nhận tin tưởng vào những điều ta không thấy nhưng xác tín nó có thật. Tôi không
thấy mẹ ra sinh tôi nhưng tôi tin tôi là con của bà ấy vì những tình cảm bà
dành cho tôi. Thiên Chúa cũng vậy, chúng ta không thấy Ngài bằng mắt trần xác
thịt, nhưng với đức tin và uy tín của Giáo Hội, chúng ta tin, tuyên xưng và
sống đức tin ấy trong cuộc đời.
Đức cậy là thái độ phải có khi cầu nguyện, đồng thời được
dưỡng nuôi nhờ cầu nguyện. Vì vậy, Thánh Phaolô đã nguyện xin “Thiên Chúa là
nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an để nhờ quyền
năng Thánh Thần anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15,13).
Cha xứ giải thích:
Lòng cậy trông vào Thiên Chúa là đặt trọn
niềm tín thác vào nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những gì tốt
nhất như Thiên Chúa ban Con Một cho chúng ta. Thiên đàng là phần thưởng lớn lao
nhất, quý giá nhất và do đó, đáng tìm kiếm nhất đối với cuộc sống của một con
người. Thiên Chúa luôn sẵn sàng và vui lòng ban thưởng Nước Trời cho những ai
cậy trông Người.
Đức mến là suối nguồn của đời cầu nguyện, vì đức mến lôi kéo
mọi sự vào trong Tình Yêu Thiên Chúa và làm cho ta có thể yêu mến Ngài như Ngài
yêu mến ta. Vì thế, ai để cho đức ái hướng dẫn, người ấy sẽ đi tới đỉnh cao của
cầu nguyện.
Cha xứ giải thích:
Hãy yêu trước khi làm bất cứ việc gì. Tình
yêu sẽ làm cho mọi việc được thực hiện cách tốt nhất. Trong đời sống đức tin
cũng vậy, chính mức độ của tình yêu trong công việc quyết định giá trị của việc
chúng ta làm. Có tình yêu, việc nhỏ cũng trở nên phi thường. Không có tình yêu,
việc lớn lao đến mấy cũng trở nên vô giá trị trước mặt Thiên Chúa.
3.4. Cái “hôm nay”
Khi dạy ta cầu nguyện, Chúa Giêsu cũng dạy về sự quan phòng của
Chúa Cha (Mt 6,11.34). Thời gian là của Chúa Cha, chúng ta gặp được Ngài trong
hiện tại, không phải hôm qua hay ngày mai, nhưng chính hôm nay: “Ước chi hôm
nay các bạn nghe tiếng Chúa! Đừng cứng lòng” (Tv 95,7-8). Khi ta cầu
nguyện khởi đi từ cái hôm nay của đời thường, ảnh hưởng của Nước Chúa thấm vào
trong dòng chảy của cuộc đời, và kinh nguyện trở thành men làm cho cả nắm bột
cuộc đời dậy lên một sức sống mới.
Cha xứ giải thích:
Hãy chú ý tới những giây
phút hiện tại. Hãy làm mọi sự trong hiện tại với tình yêu hoàn hảo. Hãy đối xử
với nhau trong hiện tại như không còn tương lai; như cơ hội cuối cùng được yêu
thương và phục vụ nhau. Một khi hiện tại được sống tròn đầy, quá khứ và tương
lai sẽ luôn tươi sáng.
4. Cầu nguyện
trong gia đình
Gia đình Kitô hữu là nơi đầu tiên để học cầu nguyện. Được xây dựng
trên bí tích Hôn Phối, gia đình là “Hội Thánh thu nhỏ”, là nơi con
cái Thiên Chúa học cách cầu nguyện. Đặc biệt với các trẻ nhỏ, kinh nguyện hằng
ngày của gia đình là chứng từ đầu tiên về ký ức sống động của Hội Thánh luôn
được Chúa Thánh Thần nâng đỡ[8].
Hội Thánh đề ra cho các tín hữu những dịp cầu nguyện để nuôi dưỡng
đời sống nội tâm. Nhịp cầu nguyện hằng ngày là kinh tối và kinh sáng, trước và
sau các bữa ăn. Trong đời sống gia đình, ta có thể cầu nguyện chung
và cầu nguyện riêng.
Cha xứ giải thích:
Thay vì đọc kinh nhiều,
chúng ta nên xen kẽ bằng những lời suy niệm và
những lời nguyện tự phát. Cũng vậy các thành viên gia đình nên được
khuyên đọc kinh chung bởi qua việc cùng cầu nguyện với nhau, gia đình sẽ giữ
được sự liên kết với nhau hàng ngày trong việc đạo đức. Khi các thành viên trong
gia đình cầu nguyện cùng nhau, Chúa Giêsu sẽ hiện diện như Ngài đã hứa “nơi đâu
có hai ba người tụ họp nhau lại nhân danh Thầy, Thẫy sẽ ở giữa họ”. Xét về phương
diện giáo dục đức tin, đứa trẻ được học những bài học đức tin và cầu nguyện
hàng ngày và chắc chắn, tạo cho chúng một nền tảng quan trọng về đức tin cho
tương lai của nó. Trong một lời, cha mẹ nên được khuyên cầu nguyện chung với
con cái bởi việc này mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng và giáo dục đức tin
cho con cái.
4.1. Cầu nguyện chung
Giờ Kinh chung của gia đình chính là giờ “ngồi bên nhau” và “cùng
nhau ngồi bên Chúa” là giờ của chân lý, là một khám phá kỳ diệu, là một liều
thuốc thần tiên. “Kinh nguyện chung trong gia đình có nội dung độc đáo là chính
cuộc sống của gia đình. Qua những tình huống thay đổi của cuộc sống ấy, chính
Thiên Chúa đang mời gọi và gia đình tín hữu đáp trả lại với đầy lòng hiếu thảo.
“Những chuyện vui buồn, hy vọng và sầu khổ, ngày sinh và ngày cưới, những người
đi vắng trở về, những chọn lựa quan trọng và ngay cả cái chết của người thân
yêu... tất cả đều là những dấu hiệu về sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa trong
cuộc sống gia đình. Những biến cố ấy phải là những dịp để gia đình tạ ơn, khấn
nguyện, tin tưởng phó thác vào bàn tay Cha chung trên trời”[9].
Trong gia đình, các thành viên càng cầu nguyện chung với nhau,
càng hiệp nhất bền chặt vì cảm nhận được sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu:
“Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin
bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì
ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt
18,19-20).
Trong tông thư “Kinh Mân Côi”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói:
“Gia đình cùng nhau cầu nguyện là gia đình cùng nhau chung sống... Những phần
tử của mỗi gia đình, khi hướng mắt nhìn lên Chúa Giêsu, cũng lấy lại được khả
năng nhìn vào mắt của nhau, khả năng
nói chuyện với nhau, khả năng tha thứ cho nhau, và khả năng nhìn thấy giao ước
yêu thương của họ được canh tân trong Thần Linh Chúa”[10].
Lợi ích của giờ kinh chung: Giờ kinh chung của gia đình là
cơ hội để mọi người thánh hoá sinh hoạt hằng ngày:
- Tạ ơn vì các hồng ân lãnh nhận trong ngày. (Người đại diện
gia đình cần thông báo những ý nguyện trước giờ kinh. Ý nguyện ấy không chỉ của
gia đình riêng của mình nhưng mở rộng đến mọi người và mọi nơi trên thế giới.
Có thể mời gọi các thành viên nói lên ý nguyện của họ).
- Dâng niềm vui, nỗi buồn, dâng mồ hôi nước mắt, những thành công,
thất bại trong ngày như hy tế để xin Chúa đón nhận, thanh tẩy, đỡ nâng và chúc
lành.
- Là cơ hội để vun xới tình gia đình: hiệp thông với những người
thân yêu đã khuất, những người vắng mặt; cầu nguyện cho những nhu cầu của nhau;
xin lỗi và tha thứ cho nhau, thông cảm, giúp nhau mỗi ngày một hoàn thiện hơn.
- Và cũng là cơ hội thuận tiện để cha mẹ dạy
dỗ, hướng dẫn con cái về mặt nhân bản cũng như về mặt đức tin. Việc giáo dục
của cha mẹ không chỉ bằng lời nói mà còn bằng chính gương sống.
Tại Việt Nam, cầu nguyện chung trong gia đình qua các giờ kinh tối
và kinh sáng là một truyền thống đạo đức rất tốt đẹp đã ăn rễ sâu trong các gia
đình Công giáo. Tuy nhiên, truyền thống này đang bị mai một dần do ảnh hưởng
của nếp sống đô thị hoá hiện nay. Để vượt qua những cản trở cho việc cầu nguyện
chung trong gia đình, vào buổi tối, cần thu xếp giờ kinh thật sớm để tiện cho
mọi người, nhất là trẻ em có thể tỉnh táo. Nếu không được, cần hướng dẫn cho
trẻ em cầu nguyện trước. Khi cầu nguyện nguyện chung, cần tạo bầu khí trang
nghiêm và ấm cúng, thực sự gặp gỡ và đối thoại với nhau.
Bàn thờ của gia đình: Để giúp mọi người nhớ tới sự
hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, mỗi nhà nên có một bàn thờ nhỏ. Bàn
thờ cần sáng sủa, trình bày đơn giản để diễn tả đức tin thật chính xác. Cách chung,
đừng để quá nhiều ảnh tượng trên bàn thờ, nên dùng một Thánh giá khá lớn, một
bên để một tượng Chúa hay ảnh Đức Mẹ, một bên để cuốn Kinh Thánh. Thay vì cuốn
Kinh Thánh, cũng có thể treo một hai tấm liễn ghi Lời Chúa. Bàn thờ cần giữ
sạch sẽ, không để những đồ đạc lặt
vặt. Bàn thờ tổ tiên có thể đặt bên dưới bàn thờ Chúa, nhưng cần có
sự phân biệt rõ ràng và trang trí đơn giản.
4.2. Cầu nguyện riêng
Thiên Chúa hiện diện giữa gia đình khi cả nhà cầu kinh chung và
cũng hiện diện cách thâm sâu trong tâm hồn mỗi người vì chính nơi đó, Ngài chờ
đợi mỗi người trở về gặp gỡ Ngài thật sâu xa. Bởi đó, cầu nguyện chung và cầu
nguyện riêng cần đi đôi với nhau. Nhờ cầu nguyện chung, người ta sẽ quen cầu
nguyện riêng; đồng thời mỗi người càng cầu nguyện riêng, thì giờ kinh chung sẽ
càng tốt đẹp. Mỗi người trong gia đình, đặc biệt các bậc cha mẹ, cần dạy cho
con cái sống tinh thần cầu nguyện bằng cách:
- Mỗi sáng vừa thức dậy nhớ dâng ngày cho Chúa và xin Chúa Thánh
Thần dạy cho biết sống cả ngày trong sự kết hiệp với Chúa. (Dâng ngày trước hết cần phác họa trong tâm trí những gì chúng ta sẽ làm
trong ngày; đánh giá những thuận lợi khó khăn; những cơ hội của ân sủng hay
những nguy cơ sa ngã vào cơn cám dỗ; những nguy hiểm có thể xuất hiện. Kế đến
xin Chúa ban ơn, trợ giúp để làm mọi sự như lòng Chúa mong ước).
- Tập luôn luôn “thấy Chúa đang nhìn ta”, dù ở đâu, làm gì, cũng
sống trong cái nhìn yêu thương của Chúa. (Ý thức sự hiện
diện siêu việt của Thiên Chúa. Hãy khởi đầu mỗi công việc bằng dấu thánh giá
với lời nguyện rằng: Lạy Chúa xin đồng hành và giữ gìn con để con làm mọi sự vì
Danh Chúa Kitô và nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa).
- Cũng có thể dùng những lời cầu nguyện tắt lặp đi lặp lại nhiều
lần trong ngày, như: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”...
- Khi đã lên giường, sắp sửa ngủ, nên ôn lại những điều đã cảm
nhận trong đoạn Lời Chúa vừa đọc trong giờ kinh tối, để tiếp tục suy niệm vào
sáng hôm sau. (Anh em chớ để mặt trời lặn mà cơn giận còn;
Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng).
Ngoài ra, mỗi người cần có những giờ phút dành riêng để cầu
nguyện, nhất là tâm nguyện hay nguyện ngắm.
Khi nguyện ngắm, nếu ở trong nhà thờ, ta nên chăm chú nhìn lên
Chúa Giêsu Thánh Thể trong nhà tạm. Ở những nơi khác, ta có thể nhìn lên tượng
Chúa hoặc hướng về Chúa đang ngự trong lòng. Để dễ tập trung, nên ngồi theo một
tư thế thật yên vững, giữ cho cột sống và đỉnh đầu thẳng góc với mặt đất, rồi
tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần, gạt bỏ hết mọi âu lo và dự tính để chú tâm
vào sự hiện diện của Thiên Chúa và đối thoại với Ngài. Hãy bắt đầu thật nghiêm
túc và nghiêm túc cho bằng được, rồi kiên nhẫn cho đến hết giờ quy định. Dần
dần, Chúa Thánh Thần sẽ đưa ta tiến sâu vào một kinh nghiệm cầu nguyện sâu xa
và thấm thía.
5. Nội dung một
giờ kinh trong gia đình
Mỗi giờ kinh thường gồm các yếu tố: Lời Chúa, lời ca, lời kinh,
lời cầu và sự thinh lặng.
Lời Chúa giữ vai trò quan trọng: đó là lương thực thiêng
liêng, là chuẩn mực hướng dẫn đời sống người tín hữu và là phương tiện thông
thường Chúa dùng để giúp ta được biến đổi. Bởi vậy, trong mỗi giờ kinh, nên đọc
một đoạn Lời Chúa trích từ Kinh Thánh để suy niệm. Nên đọc theo một chương
trình. Chẳng hạn đọc một trong các đoạn Kinh Thánh của thánh lễ hôm sau, như
được ghi trong lịch Công giáo, hoặc đọc toàn bộ Kinh Thánh trong 3 năm, tuần tự
mỗi tối một đoạn.
Sự thinh lặng để xét mình và suy niệm làm cho
Lời Chúa thấm vào lòng ta. Nhờ đó, tự đáy lòng, ta có thể nói lên những lời
nguyện tự phát để ca tụng, ngợi khen Chúa, để bày tỏ tâm tình thống hối, mến
yêu, hay để cầu xin cho những người quen biết và cho những nhu cầu của Hội
Thánh và loài người.
Lời kinh: Nên duy trì những kinh cần thiết làm nền cho giờ cầu
nguyện: Kinh Truyền tin, kinh Chúa Thánh Thần, Kinh Tin, Cậy, Mến, Ăn năn tội,
Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, Lạy Nữ Vương, Cám Ơn, Trông Cậy, kinh Vực sâu.
Trước giờ kinh, nên dành một phút xem thử sẽ dùng những kinh nào, chứ đừng vừa
cầu nguyện vừa chọn kinh.
Mỗi giờ kinh nên có một chục kinh Mân Côi đọc
chung. Thỉnh thoảng cả gia đình nên lần chung trọn chuỗi. Khi đó, nên bỏ bớt
một số kinh khác. Còn phần Lời Chúa, nếu chọn theo các mầu nhiệm Mân Côi, chỉ
cần đọc một vài câu ngắn. (Xem phần phụ lục).
Điều cần thiết khi cầu nguyện là phải nhớ rằng Chúa đang hiện
diện. Ta ở đó để nghe Ngài nói và nói với Ngài. Muốn dễ nhớ sự hiện diện của
Chúa, khi cầu nguyện nên ăn mặc nghiêm chỉnh, thu dọn đồ đạc trong phòng và
trên bàn cho ngăn nắp.
***
Để kết thúc, chúng ta cùng nhau nghe lại lời kêu gọi của Đức Thánh
Cha Phaolô VI đã ngỏ với các bậc làm cha làm mẹ. Những lời này đã được Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng nhắc lại trong Tông huấn Gia đình: “Hỡi
các bà mẹ, chị em có dạy cho các con nhỏ của mình những lời kinh của người Kitô
hữu không? Chị em có cộng tác với các linh mục để chuẩn bị cho chúng lãnh nhận
các bí tích xưng tội, rước lễ, thêm sức hay không? Nếu chúng đau ốm, chị em có
tập cho chúng quen nghĩ tới những sự đau khổ của Đức Kitô, quen cầu xin Đức Mẹ
Đồng Trinh và các thánh giúp đỡ hay không? Còn anh em, hỡi những người cha, anh
em có biết cầu nguyện chung với con cái, với cộng đồng gia đình, ít là thỉnh
thoảng không? Gương sống của anh em qua sự ngay thẳng trong tư tưởng và hành
động, được hỗ trợ bằng kinh nguyện chung, quả là một bài học sống, một hành vi
thờ phượng đáng tuyên dương. Như thế, anh em đang đem bình an vào trong tổ ấm
gia đình anh em: “Bình an cho nhà này”. Đừng quên rằng làm như thế là anh em
đang xây dựng Hội thánh[11]“.
GHI NHỚ:
1. H. Cầu nguyện là gì?
T. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, để thờ laỵ, cảm tạ,
xin Ngài tha thứ mọi tội lỗi và ban cho ta các ơn lành hồn xác.
2. H. Tại sao ta phải cầu nguyện?
T. Ta phải cầu nguyện vì Chúa Giêsu đã truyền dạy, hơn nữa, đời
sống thiêng liêng cần được nuôi dưỡng và phát triển bằng sự cầu nguyện.
3. H. Có mấy hình thức cầu nguyện trong gia đình?
T. Có hai hình thức :
- Một là cầu nguyện chung.
- Hai là cầu nguyện riêng.
4. H. Ta phải có tâm tình nào khi cầu nguyện?
T. Khi cầu nguyện ta phải có tâm tình khiêm
nhường và thống hối.
5. H. Vì sao việc cầu nguyện chung trong gia đình là quan trọng?
T. Việc cầu nguyện trong gia đình là quan trọng, vì nó giúp ta kết
hiệp với Chúa và với nhau, tạo cho gia
đình một bầu khí yêu thương và thánh thiện, giúp chuẩn bị việc cử
hành phụng vụ ở nhà thờ và kéo dài phụng vụ ấy ngay trong gia đình.
6. H. Việc cầu nguyện chung và cầu nguyện riêng liên quan với nhau
thế nào?
T. Việc cầu nguyện chung và cầu nguyện riêng nâng đỡ và bổ túc cho
nhau. Nhờ cầu nguyện chung, ta sẽ quen cầu nguyện riêng, đồng thời nếu mọi
người trong gia đình năng cầu nguyện riêng, thì giờ kinh chung sẽ càng tốt đẹp.
7. H. Mỗi giờ kinh chung trong gia đình thường gồm mấy yếu tố?
T. Mỗi giờ kinh chung trong gia đình thường
gồm năm yếu tố này:
- Một là Lời Chúa
- Hai là lời ca.
- Ba là lời kinh.
- Bốn là lời cầu.
- Năm là sự thinh lặng.
GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Mẹ Têrêsa Calcuttta nói: “Gia đình nào cầu nguyện chung với
nhau, gia đình đó sẽ bền vững”. Anh chị nghĩ thế nào về câu nói trên?
2. Theo anh chị, nên tổ chức giờ kinh tối trong gia đình như thế
nào?
3. Lên chương trình một giờ kinh tối cho gia đình dài khoảng 15-20
phút. Trao đổi với những người khác.
CẦU NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con cảm tạ Chúa
đã yêu thương dựng nên chúng con để chúng con được sống hạnh phúc bên Chúa mãi
mãi. Xin cho gia đình chúng con biết quý trọng những giờ phút quây quần bên
Chúa. Xin Chúa liên kết chúng con nên một trong tình yêu, ngõ hầu mai sau gia
đình chúng con sẽ được đoàn tụ bên Chúa mãi mãi trên Nước Trời. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
[1] GLHT 2204-2205
[2] T. Gioan
Damascênô, Đức tin chính thống.
[3] T. Têrêsa Hài
Đồng, tự truyện.
[4] T. Augustinô,
Bài giảng 56,6,9; x. Lc 18, 9-14
[5] GLHT 2652
[6] MK 5
[7] GLHT 2655
[8] GLHT 2685.
[9] GĐ 59
[10] Tông thư Kinh
Mân Côi, 41
[11] GĐ 60
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét