“Hiền thê bạn trong cửa trong nhà,
khác nào cây nho đầy hoa trái;
và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.
Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv
128,3-4).
Sách Sáng thế kể: Hai chị em Lêa và Rakhen cùng lấy một chồng là
Giacop. Khi thấy chị Lêa sinh được bốn đứa con, còn mình thì mãi không sinh nở,
Rakhen đã phát ghen và nói với Giacop: “Hãy cho tôi được có con, không thì tôi
chết mất” (St 30,1). Một đứa con sinh ra trong sự mong đợi quả là niềm hạnh
phúc lớn lao cho đôi vợ chồng. Tuy nhiên bên cạnh niềm vui cũng có nhiều nỗi
lo. Chẳng hạn đối với hai vợ chồng: phải làm sao có đủ khả năng để chăm sóc cho
con cái. Đối với xã hội, dân số gia tăng có nghĩa là phải làm sao có thêm lương
thực, thêm trường học, thêm bệnh viện, thêm việc làm... Chính vì thế, càng ngày
người ta càng ý thức hơn vấn đề sinh con có trách nhiệm. Đây cũng là vấn đề
quan trọng mà các anh chị đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân cũng như các
đôi vợ chồng cần quan tâm suy nghĩ.
1. Con cái là ân huệ cao quý nhất của
hôn nhân
“Truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân, vì tình yêu
vợ chồng tự nhiên hướng về việc sinh sản con cái. Con cái là hoa quả và thành
tựu của tình yêu vợ chồng, hiện diện ngay trong việc vợ chồng hiến thân cho
nhau, chứ không phải một cái gì từ bên ngoài được ghép vào. Vì thế Hội Thánh
“bảo vệ sự sống[1]“
và dạy rằng “mọi hành vi ân ái phải tự nó mở ngỏ cho việc truyền sinh[2]“.
“Giáo lý này đã được Huấn Quyền trình bày nhiều lần, nền tảng của giáo lý này
là sự liên kết bất khả phân ly giữa hai ý nghĩa của hành vi ân ái: kết hợp và
truyền sinh. Đây là điều chính Thiên Chúa đã muốn và con người không được tách
rời[3]“.
Cha
xứ giải thích:
Những tiến bộ của khoa học
phần nào đã giải quyết được khát vọng có con cái nối dõi của những người hiếm
muộn. Một trong những tiến bộ ấy là: thụ thai nhân tạo. Thụ thai nhân tạo
(trong phòng thí nghiêm) là phương pháp thụ thai do sự can thiệp của khoa học
mà không qua hành vi trao hiến vợ chồng. Thụ thai nhân tạo đồng hợp là kết quả
của sự thụ thai trong ống nghiệm từ tinh trùng của người chồng và trứng của
người vợ mà không qua hành vi vợ chồng. Ngược lại từ trứng (người nữ) hoặc tinh
trùng của một người nam với tinh trùng hay trứng của một người nào đó trong
vòng thi nghiệm. Trường hợp này được gọi là thụ tinh nhân tạo dị hợp.
2. Cần phải sinh con một cách có trách
nhiệm (khác
với sinh sản có kế hoạch – con người dùng những phương pháp nhân tạo để hạn chế
số lượng con cái của họ trong khi Giáo Hội không giới hạn bao nhiêu số con họ
sinh ra nhưng giúp họ ý thức bao nhiêu người con họ có khả năng để nuôi dạy nên
người).
Nhiệm vụ sinh sản và giáo dục con cái là sứ mạng riêng biệt của vợ
chồng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ ấy, họ biết rằng mình cộng tác vào công
trình sáng tạo của Đấng Tạo Hóa và trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận
của mình với trách nhiệm của một con người và của một Kitô hữu[4].
Hội Thánh cũng nhấn mạnh rằng chính lương tâm trong sáng của đôi
bạn là mực thước chỉ dạy họ quyết định về số con của mình[5].
Nhờ vâng phục Thiên Chúa và đồng tâm hiệp lực với nhau, hai vợ chồng sẽ tạo
được cho mình một phán đoán ngay thẳng:
- biết xét đến lợi ích riêng của mình cũng như của con cái đã sinh
ra hoặc sẽ sinh ra,
- biết nhận định về các hoàn cảnh vật chất và tinh thần,
- biết nghĩ đến lợi ích của gia đình, xã hội và Hội Thánh.
Sự phán đoán ấy, chính đôi vợ chồng phải suy nghĩ trước mặt Thiên
Chúa.
Khi hành động, các vợ chồng Kitô hữu luôn ý thức mình không thể
làm theo sở thích, nhưng phải tuân theo tiếng nói của một lương tâm được khuôn
đúc theo luật Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.
Cha xứ giải thích:
Tôi nhớ lại một câu chuyện
khi còn đi học ở bên Mỹ. Trong một cơn nóng giận vì đứa con gái tuổi 16 không
nghe lời mình, cha mẹ đã nói với cô ấy rằng “việc mày được sinh ra chỉ là một
sự tình cờ, một tai nạn (accident) của chúng tao thôi”. Sau khi nghe lời ấy,
đứa con gái đã chạy ra khỏi nhà dù lúc ấy là giữa đêm trường. Sinh con cái theo
Hội Thánh, đôi bạn cần phải có một sự thảo luận và cần có một kế hoạch chuẩn bị
tốt cho việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng người con của họ. Việc sinh con
như một tai nạn không chỉ tác động tới chính đứa con mà còn cả với gia đình và
dĩ nhiên với xã hội và Giáo Hội.
3. Những tiêu chuẩn để quyết định điều
hòa sinh sản
Sinh sản có trách nhiệm là suy nghĩ kỹ lưỡng và phán đoán chín
chắn trước khi quyết định sinh con. Đôi vợ chồng cần suy nghĩ và phán đoán dựa
vào các tiêu chuẩn thực tế sau đây:
3.1. Vì lợi ích của chính vợ chồng
Mỗi đứa con chào đời phải củng cố thêm tình yêu và hạnh phúc của
vợ chồng, vì đứa con là kết quả của tình yêu tự hiến của họ. Trước khi quyết
định sinh con, vợ chồng phải lưu ý đến những yếu tố giúp mang lại hoặc ảnh
hưởng đến hạnh phúc của họ, chẳng hạn sức khỏe của người mẹ, tâm lý, ước vọng
tương lai...
Cha xứ giải thích:
Đứa con phải là kết quả của
một khát khao của đôi bạn và dĩ nhiên, phải mang lại hạnh phúc cho đời sống hôn
nhân gia đình của họ. Thiếu sự bàn bạc, đồng thuận, sự xuất hiện của đứa con có
thể mang lại bất hạnh cho đôi bạn. Trong đó, nỗi khổ được đặt lên người nữ
nhiều hơn người nam qua việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dạy con cái. Tâm lý bất
ổn của người mẹ trong thời kỳ mang thai sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hình
thành và phát triển của đứa con sau này. Xa hơn, những xung đột gia đình sau
này cũng tác động tới tâm lý của các em. Do đó, đôi bạn cũng nghĩ đến lợi ích
của con cái nữa.
3.2. Vì lợi ích của con cái
Con cái là ân huệ tốt đẹp nhất của hôn nhân. Sinh một đứa con là tự
ý chấp nhận tạo mọi điều kiện để nó có thể sống hạnh phúc, sống xứng đáng với
ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa. Do đó, đôi bạn cần lưu ý đến khả năng
tài chính, nơi ăn chốn ở, những phương cách giáo dục... và tính toán xem nếu
sinh thêm một đứa con, liệu mình có thể nuôi dưỡng và giáo dục nó được chu đáo
không.
Cha xứ giải thích:
Có nhiều người thắc mắc
“tại sao Giáo Hội lại không cho các đôi vợ chồng hiếm muộn có con bằng phương
pháp thụ thai nhân tạo? Phải chăng Giáo Hội không quan tâm tới mong ước của đôi
bạn”? Chắc chắn Hội Thánh hiểu được khát vọng chính đáng của đôi vợ chồng hiếm
muộn nhưng xa hơn nữa, Hội Thánh nghĩ đến lợi ích của con cái và của cả đôi vợ
chồng nữa. Đối với thụ thai nhân tạo dị hợp, hình ảnh của đứa con có thể làm
cho một trong hai người (hoặc cha hoặc mẹ) nghĩ rằng nó không là con của tôi mà
là của một ai đó. Ý nghĩ này càng lớn hơn trong trường hợp có sự xung đột vợ
chồng. Đối với đứa trẻ, một khi phát hiện ra sự thật, và trong trường hợp bị
đối xử không tốt, nó sẽ rời khỏi gia đình để cố gắng tìm kiếm ai mới là cha là
mẹ thật của nó. Đứa trẻ sống trong bất hạnh cả đời. Trong trường hợp thụ thai
nhân tạo đồng hợp, đứa trẻ phải sống thế nào với bạn bè, người thân khi nó và
người khác biết nó được sinh ra từ ống nghiệm. Một sự thật khủng khiếp mà đứa
trẻ phải mang trong cuộc đời của nó. Khoa học cũng minh chứng cho thấy nhiều
đứa trẻ bị dị tật hay mắc những căn bệnh bẩm sinh nghiêm trọng do ảnh hưởng
trực tiếp từ tình trạng sức khỏe về thể lý, tâm lý như bệnh tật, sức khỏe, dinh
dưỡng… từ người cha và nhất là người mẹ.
3.3. Vì lợi ích của xã hội và Hội
Thánh
Xã hội phát triển là nhờ những phần tử khoẻ mạnh, siêng năng làm
việc và có những đức tính cần thiết. Cũng vậy, Hội Thánh chỉ thực sự phát triển
khi con cái của mình không những kiên vững về đức tin mà còn trưởng thành về
nhân bản nữa. Do đó, sự lượng định về khả năng nuôi dạy và giáo dục con cái trở
thành những phần tử hữu ích cho xã hội và Hội Thánh cũng là một tiêu chuẩn mà
đôi bạn cần lưu ý khi quyết định về việc điều hòa sinh sản.
Cha xứ giải thích:
Gia đình là con đường của
Hội Thánh. Hội Thánh đến với xã hội và nhân loại qua gia đình. Các nghiên cứu
về tác động của môi trường, văn hóa và nhất là tầm quan trọng cuả việc giáo dục
tuổi thơ (childhood) càng cho thấy vai trò của gia đình trong việc hình thành
nhân cách của con cái. Những chấn thương tâm lý trong lịch sử hình thành và
phát triển của một trẻ em trong gia đình ảnh hưởng rất lớn trong cuộc sống
tương lai của em. Cũng vậy, môi trường đức tin và tình yêu trong gia đình cũng
mang tính quyết định cho cuộc sống tôn giáo của các em sau này. Trong ý nghĩa
đó, cha mẹ nên cân nhắc đến ích lợi của Hội Thánh và xã hội khi quyết định sinh
con cái.
4. Vấn đề ngừa thai
Do tình trạng tài nguyên trên thế giới phân phối không đều, ngày
nay những nước nghèo không đủ sống, trong khi những nước giàu quá thừa thãi.
Cũng vì thế, đang khi nhiều nước giàu khuyến khích các gia đình có thêm con
cái, thì các nước nghèo bị áp lực phải tìm cách hạn chế dân số. Nhiều gia đình
tự thấy chỉ nên sinh con trong khả năng mình có thể nuôi dạy chúng nên người.
Trong việc kế hoạch hóa gia đình, người Công giáo không được phép
sử dụng cách ngừa thai nhân tạo mà chỉ được sử dụng cách ngừa thai tự nhiên,
khi có lý do chính đáng theo những tiêu chuẩn của Hội Thánh.
“Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm đó là điều hòa truyền
sinh. Khi có lý do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa
các lần sinh nở. Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ,
nhưng xứng hợp với lòng quảng đại chính đáng của bậc làm cha mẹ có trách nhiệm.
Ngoài ra, họ phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lý:
“Khi cần hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc sinh sản con cái có
trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc
vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định
theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính nhân vị và của hành động
nơi nhân vị: những tiêu chuẩn ấy tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và
sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Đó là điều không thể thực
hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng”[6].
Cha xứ giải thích:
Mục đích của việc ngừa thai
theo phương pháp tự nhiên, theo Hội Thánh, là muốn để hành vi vợ chồng là một
hành vi trao hiến thực sự của tình yêu vợ chồng chứ không chỉ đơn thuần như
giải quyết một nhu cầu sinh lý. Nếu như một nhu cầu sinh lý, nó đơn thuần là
một hành vi tính dục của một con đực với một con cái và tình yêu không có chỗ
cho hành vi này. Nó đơn thuần chỉ làm thỏa mãn bản năng tính dục nơi con người.
Dần dà, hành vi này biến người nữ trở thành một loại nô lệ tình dục bởi không ít
lần nó trở thành một hành vi không có tự do, bị ép buộc bởi người kia – một
hành vi hiếp dâm trong một nghĩa nào đó. Và như vậy, thay vì diễn tả và làm gia
tăng tình yêu vợ chồng, nó từng ngày làm tê liệt và giết chết tình yêu vợ
chồng.
Ngừa thai tự nhiên như một
lời mời gọi tiết chế trong quan hệ vợ chồng chính là để trả lại và nâng cao ý
nghĩa của hành vi vợ chồng. Nó không còn là hành vi của những “con” nhưng là
của những “người”, những nhân vị trong tự do, hạnh phúc, yêu thương trao hiến
cho nhau. Trong nghĩa này, hành vi vợ chồng cần được trao đổi, bàn bạc, chuẩn
bị cả về thể lý, tâm lý, tinh thần và tâm linh của cả hai bên để nó trở thành
một hành vi mở ra cho Thiên Chúa như tác giả của sự sống và mở ra cho nhau đến
vô tận. Chỉ lúc này, hành vi vợ chồng mới thực sự thăng tiến tình yêu giữa họ.
4.1. Cách thức ngừa thai nhân tạo
Ngừa thai nhân tạo là trực tiếp làm cho khả năng sinh sản vô hiệu
hoặc làm cho diễn tiến truyền sinh bị ngăn chặn hay không thể đạt kết quả.
Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nam giới gồm những phương
pháp: thắt ống dẫn tinh, bao cao su, xuất tinh ngoài âm đạo, thuốc diệt tinh
trùng...
Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nữ giới gồm những phương
pháp: thắt ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), dụng
cụ như vòng xoắn, màng ngăn...
Hội Thánh cấm dùng các phương pháp ngừa thai này, vì chúng chẳng
những ngăn cản vợ chồng cộng tác vào công cuộc trao ban sự sống mà còn làm sai
lạc sự thật căn bản của tình yêu vợ chồng là hiến thân trọn vẹn cho nhau.
“Cấm việc hút điều hoà kinh nguyệt, vì là hình thức phá thai non.
Cấm những hành động trực tiếp ngăn cản việc thụ thai tạm thời hay vĩnh viễn.
Cấm sử dụng các dụng cụ, các loại thuốc ngừa thai[7]“.
Cha xứ giải thích:
Tình yêu không có chỗ cho
sự sợ hãi. Sự sợ hãi có con dẫn đến dùng các phương tiện ngừa thai nhân tạo
khiến cho sự sợ hãi hiện diện trong chính hành vị vợ chồng và như thế nó giết
dần tình yêu trong họ. Sự ngừa thai cũng có thể dẫn đến sự không thỏa mãn của
hành vi tính dục và do đó, có thể hàm chứa nguy cơ một trong hai đi tìm kiếm
một nơi khác, một đối tác ngoài hôn nhân để tìm thỏa mãn. Như đã nói ở trên,
ngừa thai nhân tạo làm cho hành vi vợ chồng không còn như một phương thế diễn
tả và làm gia tăng tình yêu vợ chồng. Chúng ta chưa kể hết những nguy cơ sức
khỏe khi dùng những loại thuốc để kiểm soát sinh sinh sản.
4.2. Cách thức ngừa thai tự nhiên
Ngừa thai tự nhiên là tiết dục định kỳ, vợ chồng kiêng giao hợp
trong thời kỳ người vợ dễ dàng thụ thai.
Nếu có lý do chính đáng, vợ chồng có thể sử dụng cách thức ngừa
thai tự nhiên này, vì nó không đối nghịch với bản chất và mục đích của
hành vi yêu thương thân mật; không trực tiếp ngăn cản việc trứng thụ tinh hay
giết chết bào thai[8].
Sau đây là hai phương pháp giúp xác định ngày trứng rụng, cũng như
xác định trong chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ những ngày nào có thể thụ
thai và những ngày nào không thể thụ thai.
- Phương pháp Ogino-Knauss
Phương pháp này do hai bác sĩ Ogino người Nhật và Knauss người Áo
cùng tìm ra vào các năm 1925-1930. Nó dựa trên chu kỳ kinh nguyệt để xác định
ngày rụng trứng. Trứng thường rụng vào ngày thứ 14 trước khi có kinh lần sau.
Thỉnh thoảng trứng cũng có thể rụng vào ngày thứ 12 hoặc ngày thứ 16.
Phương pháp này còn dựa vào thời gian hoạt động của trứng và tinh
trùng. Sau khi vào âm đạo, tinh trùng có thể sống khoảng 72 giờ. Còn trứng, sau
khi rụng, có thể sống khoảng 24 giờ.
Căn cứ vào những yếu tố trên, người ta có thể xác định được trong
một chu kỳ kinh nguyệt khoảng thời gian nào là có thể thụ thai và khoảng thời
gian nào là không thể thụ thai. Nếu chưa muốn có thai thì kiêng giao hợp trong
khoảng thời gian có thể thụ thai.
- Phương pháp quan sát chất nhờn
Phương pháp này do cặp vợ chồng người Úc John và Evelyn Billings
tìm ra, nên còn gọi là phương pháp Billings.
Nơi người phụ nữ, việc tiết chất nhờn ở cổ tử cung và âm đạo
thường theo một quy trình nhất định. Sau những ngày kinh nguyệt, âm đạo thường
khô ráo. Trước khi trứng rụng vài ngày, chất nhờn bắt đầu tiết ra, lúc đầu ít,
đục, dẻo; sau đó nhiều, trong, trơn ướt, nhớt, có thể kéo sợi được, giống như
lòng trắng trứng gà. Đây chính là ngày trứng rụng. Sau đó chất nhờn trở lại
đục, dẻo và ít trong vài ngày, trước khi người phụ nữ lại cảm thấy khô ráo ở âm
đạo cho đến kỳ kinh lần sau.
Nếu chưa muốn có thai, vợ chồng cần kiêng giao hợp trong những
ngày có chất nhờn ở âm đạo, nhất là trong ngày chất nhờn có nhiều.
Trong thực tế, để tăng cường hiệu quả, người ta thường phối hợp cả
hai phương pháp. Thật ra, không có phương pháp nào mà không có bất tiện và
không đòi hy sinh, cố gắng. Ai tin vào Đức Kitô đều được mời gọi sống khiết
tịnh tùy theo bậc sống của mình. Vả lại, mọi người đều phải ý thức rằng sự sống
con người và trách nhiệm lưu truyền sự sống không chỉ giới hạn ở đời này, cũng
như không thể hiểu và đo lường được trọn vẹn ý nghĩa ngay từ bây giờ, nhưng
luôn quy chiếu về định mệnh vĩnh cửu của con người.
Những phương pháp trên đây vẫn chưa phải là đơn giản. Chúng ta cần
hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha để cầu xin Chúa cho các nhà khoa học có
thể tìm ra những phương thức giản tiện hơn nữa, nhờ đó các đôi bạn có thể được
dễ dàng hơn.
5. Vấn đề phá thai
Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc
được thụ thai. Ngay khi bắt đầu hiện hữu, con người phải được kẻ khác nhìn nhận
các quyền làm người, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của
mọi người vô tội[9].
Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một tội
ác. Giáo huấn ấy bất biến, không hề thay đổi. Trực tiếp phá thai dù là mục
đích hay phương tiện, đều vi phạm nghiêm trọng luật luân lý[10].
Cộng tác vào chính việc phá thai là một lỗi nặng. Theo giáo luật,
Hội Thánh ra vạ tuyệt thông cho kẻ phạm tội này[11].
Làm như thế Hội Thánh không có ý giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng
muốn nhấn mạnh tính cách nghiêm trọng của tội ác đã phạm, sự thiệt hại không
thể sửa chữa được đã gây ra cho đứa trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ của em
và cho toàn xã hội[12].
6. Những đôi vợ chồng vô sinh
Thánh Kinh luôn coi những gia đình đông con là một dấu chỉ phúc
lành của Thiên Chúa (x. Tv 128,3-4)
Thật đau khổ cho những đôi vợ chồng không con. “Ông Abraham thưa:
Lạy Đức Chúa, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái” (St
15,2). Rakhen nói với chồng: “Hãy cho tôi được có con, không thì tôi chết mất”
(St 30,1).
Quả thực, những đôi bạn ở trong hoàn cảnh vô sinh mới thấm thía
sâu xa rằng “Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là niềm hạnh phúc
lớn lao của cha mẹ[13].”
Bởi vậy, thật hạnh phúc khi có thể nhờ những tiến bộ khoa học để chữa trị chứng
vô sinh.
Tuy nhiên, những kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua sự can thiệp
của một người thứ ba (cho tinh dịch hoặc trứng, cho mượn tử cung) là những hành
vi phải bị loại bỏ. Những kỹ thuật này (thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo
khác nguồn) vi phạm quyền của đứa trẻ phải được sinh ra do cha mẹ đã chính thức
kết hôn và quyền được biết cha mẹ là ai. Những kỹ thuật này vi phạm “độc quyền
làm cha làm mẹ của đôi vợ chồng”[14].
Về mặt luân lý, những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ thai
nhân tạo vẫn không thể được chấp nhận, vì tách rời hành vi tính dục với
việc truyền sinh. Sinh sản con cái không còn là một hành vi của hai con người
hiến thân cho nhau, nhưng “sự sống và căn tính của phôi thai bị trao vào tay
các bác sĩ và các nhà sinh học, và để kỹ thuật thống trị trên nguồn gốc và vận
mệnh của con người. Một mối quan hệ thống trị như thế tự bản chất đi ngược với
phẩm giá và sự bình đẳng chung của cả cha mẹ lẫn con cái[15]“.
Để cho việc truyền sinh xứng với phẩm giá con người, chúng ta phải tôn trọng
mối dây liên hệ giữa những ý nghĩa của hành vi ân ái và sự tôn trọng tính thống
nhất của bản tính con người[16].
Đôi vợ chồng nào, sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của
y khoa, vẫn phải chịu nỗi đau khổ vô sinh, được mời gọi liên kết với Thập Giá
của Chúa là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng. Họ có thể sống quảng đại
bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi, hoặc tham gia những công tác phục
vụ tha nhân[17].
Cha xứ đã giải thích ở trên. Một điểm cần thêm ở đây là
để thực hiện việc thụ thai trong ống nghiệm, các bác sĩ phải chọn lựa trứng nào
được thụ thai ở tình trạng khỏe nhất, tốt nhất và như thế, họ phải loại bỏ biết
bao nhiêu sinh linh còn lại. Suy nghĩ cho cùng, hành vi này cũng giống như một
lý thuyết chọn lựa ưu sinh và xa hơn nữa, loại người nào không đáng sống sẽ bị
loại bỏ dần trong một thế giới chỉ đánh giá con người ở những gì “con người có”
mà quên đi “những gì con người là”.
***
Trong tâm tình biết ơn tình mẹ của Hội Thánh, chúng ta cùng nhau
nghe lại lời Đức Thánh Cha Phaolô VI trong số 25 của thông điệp Sự Sống Con
Người: “Giờ đây cha xin ngỏ lời riêng với các con cái nam nữ của cha mà
đa số được Thiên Chúa mời gọi phụng sự Ngài trong bậc hôn nhân. Đang khi nêu rõ
cho các con những điều không thể vi phạm mà luật Chúa đã quy định, Hội Thánh
cũng loan báo ơn cứu độ cho các con, và qua các bí tích, Hội Thánh vẫn luôn mở
rộng cho các con nguồn ơn thánh, giúp các con trở thành những thụ tạo mới, vừa
biết lấy tình mến và tự do mà đáp lại ý định của Thiên Chúa Tạo Hoá và là Đấng
Cứu Độ, vừa nghiệm ra rằng ách của Đức Kitô luôn êm ái dịu dàng (Mt 11,30).
Ước gì trong trách nhiệm vợ chồng Kitô hữu, các con biết khiêm
nhường vâng phục Hội Thánh và ý thức rõ rằng các con đang được gọi sống đời
Kitô hữu, một ơn gọi đã bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và nay được củng cố và làm
sáng tỏ hơn trong bí tích Hôn phối. Nhờ bí tích này, các con được thêm sức mạnh
và được thánh hiến để trung thành chu toàn các bổn phận bậc mình. Vì thế ước gì
các con ý thức trọn vẹn ơn gọi của các con và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt
thế gian. Thật vậy, Chúa đã giao cho các con trách nhiệm làm cho mọi người thấy
được sự thánh thiện và niềm vui của luật Chúa, luật dạy chúng con vừa yêu
thương nhau vừa biết cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa là tác giả của sự
sống con người.
Cha không hề muốn làm ngơ trước những khó khăn rất lớn đang vây
phủ đời sống các đôi bạn Kitô hữu. Thế nhưng chúng ta quá biết rằng chỉ có cửa
hẹp và đường chật mới dẫn đến sự sống (Mt 7,14). Chính niềm hy vọng hướng tới
sự sống ấy sẽ như đuốc rực rỡ chiếu sáng bước đường chúng con đi, để chúng con
có được một tinh thần quả cảm, luôn cố gắng “sống tiết độ, công minh và đạo đức
ở đời này” (Tt 2,12), vì biết chắc rằng “bộ mặt thế gian này đang qua đi” (1Cr
7,31).
GHI NHỚ:
1. H. Sinh sản có trách nhiệm nghĩa là gì?
T. Sinh sản có trách nhiệm nghĩa là khi sinh con, cha mẹ phải lo
nuôi dưỡng, giáo dục, để chúng nên người. Bởi vậy vợ chồng cần suy xét cẩn thận
để có quyết định đúng đắn và phù hợp trong việc sinh con.
2. H. Vì sao cần phải sinh sản có trách nhiệm?
T. Vì sinh sản có trách nhiệm, vừa thi hành đúng ý định của Thiên
Chúa, vừa đáp ứng đòi hỏi của tình yêu vợ chồng, để đem lại lợi ích cho gia
đình, xã hội và Hội Thánh.
3. H. Để sinh sản có trách nhiệm, vợ chồng Kitô hữu phải có thái
độ nào?
T. Vợ chồng Kitô hữu phải có những thái độ sau đây:
- Một là phải biết làm chủ bản năng tính dục.
- Hai là phải biết tôn trọng lẫn nhau.
- Ba là phải biết rõ hoàn cảnh cụ thể của mình để cùng nhau quyết
định sinh con hay tạm ngừng.
- Bốn là phải dùng cách thức tự nhiên.
- Năm là phải biết tin tưởng vào Chúa để sẵn sàng đón nhận những
đứa con ngoài ý muốn.
4. H. Cách thức ngừa thai tự nhiên là gì?
T. Cách thức ngừa thai tự nhiên là tiết dục định kỳ, vợ
chồng kiêng cữ trong thời kỳ người vợ
dễ dàng thụ thai. Khi có lý do chính đáng, vợ chồng được quyền sử dụng cách
thức này.
5. H. Có những phương pháp nào giúp xác định
được ngày trứng rụng?
T. Có hai phương pháp này :
- Một là dựa vào chu kỳ kinh nguyệt, được gọi là phương pháp
Ogino.
- Hai là dựa vào hiện tượng chất nhờn, được gọi là phương pháp
Billings.
6. H. Cách thức ngừa thai nhân tạo là gì?
T. Cách thức ngừa thai nhân tạo là trực tiếp làm cho khả năng sinh
sản ra vô hiệu hoặc làm cho diễn tiến truyền sinh bị ngăn chặn hay không thể
đạt kết quả. Người Công giáo không được sử dụng cách thức này.
7. H. Để thực hiện cách thức ngừa thai nhân tạo người ta thường
dùng những phương pháp nào?
T. Đối với nam giới gồm có: thắt ống dẫn tinh, dùng bao cao su,
xuất tinh ra ngoài, dùng thuốc diệt tinh trùng. Đối với nữ giới gồm có: thắt
ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), dụng cụ như vòng
xoắn, màng ngăn.
8. H. Phá thai có tội hay không?
T. Phá thai là tội rất nặng vì đây là tội giết người.
GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Theo anh chị, ngày nay sự sống con người đang được tôn trọng
hay đang bị đe dọa?
2. Anh chị nghĩ gì về quan niệm của người bình dân Việt Nam: “Trời
sinh voi, trời sinh cỏ”?
3. Theo anh chị, việc tự nguyện tiết dục định kỳ trong đời sống
hôn nhân sẽ giúp làm thăng tiến hay sẽ gây phương hại cho tình yêu vợ chồng?
CẦU NGUYỆN:
Lạy Mẹ Maria, bình minh của thế giới mới, Mẹ của mỗi người chúng
con,
chúng con giao phó cho Mẹ vấn đề sự sống.
Ôi lạy Mẹ, xin hãy nhìn xem hằng hà sa số trẻ em mà người ta không
cho ra đời,
những người nghèo với cuộc sống gian khổ,
những người già và những bệnh nhân bị giết,
do sự vô tâm hoặc do một thứ thương hại dối trá.
Xin làm cho những ai tin vào Con của Mẹ
biết loan báo cho những người thời đại này Tin mừng sự sống với sự
xác quyết và lòng yêu thương.
Xin cho họ được ơn đón nhận Tin mừng sự sống như một hồng ân luôn
mới mẻ,
cho họ niềm vui cử hành hồng ân ấy với lòng biết ơn trong suốt cuộc
đời họ,
và lòng can đảm làm chứng cho Tin mừng sự sống cách bền bỉ và tích
cực,
để cùng với tất cả mọi người thiện chí,
xây dựng nền văn minh chân lý và tình yêu,
hầu chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa,
Đấng Tạo Hóa hằng yêu thương sự sống. Amen.
[1] x. GĐ 30
[2] SSCN 11
[3] GLHT 2366; x.
SSCN 12; ĐGH Piô XI, thông điệp“Casti connubii”
[4] MV 50,2; GLHT
2367
[5] SSCN 10
[6] x. MV 51,3
[7] x. SSCN 14
[8] x. GLHT 2368 và
2370
[9] GLHT 2270
[10] GLHT 2271
[11] x. GL 1398
[12] GLHT 2272
[13] x. MV 50
[14] GLHT 2376
[15] x. Huấn thị
Donum vitae (Hồng ân sự sống) 2,5
[16] x. Huấn thị
Donum vitae (Hồng ân sự sống) 2,4
[17] x. Huấn thị
Donum vitae (Hồng ân sự sống) 2,1; GLHT 2375-2379
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét