Thứ Tư, 16 tháng 11, 2016

GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 21


“Sự sáng của các con cũng phải chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, 
để họ xem thấy việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời” (Mt 5,16).

Giữa gia đình và xã hội có một mối liên hệ mật thiết. “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình[1]“. Ngược lại, xã hội có trật tự yên ổn thì gia đình mới phát triển. Chính vì thế, gia đình và xã hội có bổn phận phải góp phần xây dựng, bảo vệ, củng cố và phát triển lẫn nhau.

Riêng đối với người Kitô hữu, mối quan hệ giữa gia đình và xã hội còn sâu sắc hơn, bởi vì tính cách trần thế là nét riêng biệt và đặc thù của ơn gọi Kitô hữu giáo dân. “Người giáo dân sống giữa trần gian, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là nơi Thiên Chúa mời gọi họ. Nhờ sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hoá thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình[2]“.

1. Gia đình là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội
Gia đình là tế bào căn bản của đời sống xã hội, là xã hội tự nhiên, nơi đó người nam và người nữ được mời gọi tận hiến cho nhau trong tình yêu và trong việc thông truyền sự sống. Quyền bính, sự ổn định và đời sống gắn bó trong gia đình là nền tảng cho tự do, an ninh và tình huynh đệ của xã hội.

“Gia đình là cộng đoàn, nơi đó từ thời thơ ấu, con người được học biết tôn trọng những giá trị luân lý, tôn thờ Thiên Chúa và biết sử dụng tự do. Đời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội[3]“.

Cha xứ giải thích:
Ngày nay các bậc làm cha mẹ, nhất là các cha mẹ trẻ, phần do công việc làm ăn, phần trao phó cho các hệ thống giáo dục nhà nước, dẫn đến đứa trẻ phát triển cách không cân bằng giữa tâm lý, tri thức, nhân bản, tâm linh. Cha mẹ dường như chỉ quan tâm tới cái ăn, cái mặc của con cái mà không quan tâm dành thời gian để gần gũi, chia sẻ và yêu thương nhau.

2. Xã hội phục vụ gia đình
Gia đình có tốt thì xã hội mới tốt. Tuy nhiên, ngày nay đời sống gia đình đang gặp phải nhiều bóng tối. Nề nếp gia phong bị suy giảm. Khuynh hướng hưởng thụ ích kỷ phát triển dẫn đến lối sống buông thả, từ đó làm gia tăng những vụ ly dị, phá thai, không còn ý thức về phẩm giá sự sống. Con số thanh thiếu niên rơi vào xì ke, ma tuý, mại dâm, sống lang thang ngoài đường phố tăng thêm nhiều...

Chính vì thế, mọi người hữu trách và mọi người thiện chí đều phải quan tâm đến việc bảo vệ, củng cố và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình. Đặc biệt, cần tôn trọng, trợ giúp và nhất là bảo đảm cho gia đình có được các quyền sau đây:

- “Quyền tự do lập gia đình, quyền sinh con cái và giáo dục chúng theo những xác tín luân lý và tôn giáo của mình”.

- “Quyền bảo toàn dây liên kết vững bền của hôn nhân và cơ chế gia đình”.

- “Quyền tự do tuyên xưng đức tin và thông truyền đức tin, quyền giáo dục đức tin cho con cái bằng những phương tiện và cơ chế cần thiết”.

- “Quyền tư hữu, tự do làm việc, có việc làm, có nhà ở, tự do di cư”.

- “Quyền được chăm sóc y tế trợ cấp tuổi già, phụ cấp gia đình, tùy theo cơ chế của các quốc gia”.

- “Quyền được bảo vệ an ninh và cuộc sống lành mạnh, tránh các nguy cơ như: xì ke ma túy, dâm ô đồi trụy, nghiện rượu...”

- “Quyền tự do liên kết với các gia đình khác để lập hội đoàn và như thế, được đại diện bên cạnh công quyền”[4].

Trên bình diện giáo xứ cũng như giáo phận, trong thư mục vụ năm 2002, Hội Đồng Giám mục VN đề nghị:

- Các Giáo phận nên có Văn phòng Mục vụ về Hôn nhân và Gia đình.

- Các Giáo xứ nên tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình. Để các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình có được kết quả tốt đẹp, cần soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân, đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng, kêu gọi sự cộng tác của giáo dân có khả năng chuyên môn và có kinh nghiệm trong các lãnh vực: tâm lý, xã hội, pháp luật, quản trị, y khoa.

- Ban Mục vụ giáo xứ có một bộ phận chuyên trách về gia đình với sự cộng tác của các Hội đoàn quan tâm đến tình trạng các gia đình trong khu xóm, đặc biệt các gia đình nghèo khổ, bất thuận và các gia đình di dân, để kịp thời giúp đỡ.

- Những ngày lễ gia đình, ngày kỷ niệm thành hôn, những buổi giao lưu giữa các gia đình sẽ rất ích lợi nếu được chuẩn bị chu đáo với tinh thần cầu nguyện và học hỏi.

3. Gia đình góp phần xây dựng và phát triển xã hội
- Tham gia vào các việc chung, các công tác xã hội. “Đối với người tín hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với tha nhân, và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe doạ[5]“.

- Giáo dục con cái nên người. Gia đình là chiếc nôi, là trường học đầu tiên, nơi con cái lớn lên cả về thể xác lẫn tinh thần, nơi con cái không chỉ được dạy dỗ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Bởi vậy, gia đình còn được gọi là trường đào tạo nhân đức. Cần dạy con cái về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đặc biệt là các đức tính thành thật, công bằng, tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, yêu thương người nghèo, người già cả, neo đơn, ốm đau, tật nguyền...[6]

- Góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương. Đó là một xã hội công bằng và yêu thương. “Hội Thánh mong muốn người Công giáo đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần tư tưởng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ đang sống... qua đức tin và đức ái của mình, bằng đời sống lương thiện như ánh sáng trần gian, tìm cách cộng tác với mọi người, đối thoại với họ, để phổ biến những gì là chân thật, công bằng[7]“.

“Trong các việc tông đồ của gia đình, cần phải kể các việc như sau: nhận nuôi trẻ bị bỏ rơi, cho khách trọ nhờ, cộng tác với học đường, giúp thanh thiếu niên, đỡ đầu các đôi hôn nhân, giúp dạy giáo lý, nâng đỡ những gia đình gặp khó khăn về vật chất và tinh thần, lo cho người già những điều cần thiết và tiện nghi chính đáng[8]“.

GHI NHỚ :
1. H. Gia đình nắm giữ vai trò nào đối với xã hội?
T. Gia đình chính là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội.

2. H. Xã hội có trách nhiệm thế nào đối với gia đình?
T. Xã hội cần phải quan tâm đến việc bảo vệ, củng cố và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình.

3. H. Gia đình góp phần xây dựng xã hội bằng cách nào?
T. Gia đình góp phần xây dựng xã hội bằng cách tuân giữ luật pháp quốc gia, cộng tác trong những công việc chung để phát triển đất nước, giáo dục con cái trở nên người hữu ích và góp phần xây dựng nền văn minh tình thương.

GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Trong Tông huấn về Gia đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói: “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình”. Anh chị nghĩ sao về điều này? Gia đình của anh chị có trách nhiệm gì đối với tương lai của đất nước và của gia đình nhân loại?

2. Thư mục vụ năm 2002 của HĐGM VN, trong phần kết luận đã viết như sau: “Một gia đình Kitô hữu thực sự tốt đẹp không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng cần mở rộng mối quan hệ với những gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương”. Gia đình của anh chị sẽ góp phần xây dựng nền văn minh tình thương như thế nào?

CẦU NGUYỆN:
Lạy Thánh Gia Nadarét là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình thành niềm an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình đều được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Hội Thánh. Amen.



[1] GĐ 86
[2] GH 31
[3] GLHT 2207
[4] GLHT 2211; x. GĐ 46
[5] MV 43
[6] x. GHAC 34
[7] x. TĐ 14
[8] TĐ 11



GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 20


Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, 
anh em được sống vui vầy bên nhau (Tv 133,1).

Mỗi gia đình đều có những ngày lễ riêng, đánh dấu những biến cố vui, buồn của gia đình. Chẳng hạn như ngày giỗ của ông bà, cha mẹ, ngày kỷ niệm thành hôn của vợ chồng, ngày sinh nhật, ngày lễ bổn mạng của một người trong gia đình... Những ngày lễ của gia đình là dịp để mọi người trong gia đình quây quần bên nhau trong tình yêu thương hiệp nhất, vun xới thêm tình gia đình.

Đầu năm, mỗi gia đình nên ghi các ngày lễ của gia đình mình vào cuốn lịch Công giáo để dễ nhớ.

1. Lễ Gia tiên
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa thường tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, của Ixaác, của Giacop, nghĩa là Thiên Chúa các tổ phụ. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống.[1] Bên kia cái chết, các bậc tiền nhân đã thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm các thánh thông công. Do đó, khi bày tỏ lòng hiếu kính, nhớ đến gia tiên tổ phụ, người Công giáo không làm một sự thờ phượng nằm ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng là để nhờ đó mà thêm lòng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất[2]. Đàng khác, khi nhớ đến tổ tiên theo huyết thống, người Công giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin.

Người Việt Nam thường có thói quen rất tốt: mỗi khi gia đình có việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia tiên và biểu lộ tâm tình ấy bằng việc cúng lễ, hoặc đơn giản thắp một nén nhang trên bàn thờ. Người tín hữu Công giáo Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với một cái nhìn chính xác, phù hợp với đức tin Kitô giáo.

Cha xứ nhắc nhớ:
Mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Ngày tết, ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những chi tiết trái với đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý. Về hình thức, cốt sao biểu lộ được tấm lòng và giúp con cháu trong nhà học được tâm tình biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá.

Khi cúng lễ, cần nhắc cho mọi người trong nhà nhớ: đức tin Công giáo dạy ta biết rằng người quá cố không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm bày tỏ lòng biết ơn kính nhớ mà thôi.

Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt, thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.

Cha xứ dặn dò:
Bàn thờ tổ tiên tuy đơn sơ nhưng phải trang trọng. Chúng ta phải nhận rằng, bàn thờ tổ tiên của người Công Giáo chưa trang trọng bằng người ngoài Công Giáo. Ít có gia đình Công Giáo nào có một tủ thờ như các gia đình ngoại giáo. Thường là một bàn thờ nhỏ đôi khi tuềnh toàng trong một góc tối nào đó. Nó dường như chưa được đặt vào một vị trí xứng hợp.

2. Dọn tất niên
Tết Nguyên đán là dịp sum họp gia đình, kính nhớ tổ tiên và thăm viếng nhau để gia tăng tình thân ái. Cần loại bỏ những chi tiết phong tục quá rườm rà, cũng như những gì đi ngược lại với Tin mừng, và phải lưu ý phát huy những gì tốt đẹp. Khởi đầu là việc dọn tất niên.

Từ giữa tháng chạp là thời gian thuận tiện để mỗi gia đình tổng kết một năm. Cha mẹ và con cái sẽ cùng nhau:

- Làm xong những việc cần thiết còn đọng lại.
- Tổng kết chi thu, thanh toán nợ nần.
- Tổng kết kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc một năm qua.
- Chọn hướng sống hoặc chủ đề giáo dục gia đình trong năm mới.
- Dọn mình xưng tội cuối năm.
- Cha mẹ đỡ đầu thăm nom nhắc nhở con thiêng liêng (các con thiêng liêng thì chúc tết cha mẹ đỡ đầu dịp cuối năm hoặc đầu năm).
- Cũng nên dành một tuần lễ kết bó hoa thiêng liêng tạ ơn Thiên Chúa và cầu cho nhau (gồm: dâng lễ, rước lễ, đọc Lời Chúa, lần hạt, hy sinh...)

Những việc trên đây sẽ làm xong trước ngày ăn bữa tất niên (vào ngày cuối năm hoặc một ngày nào sớm hơn, tùy tiện). Bữa ăn này được coi như để kết toán mọi chuyện: còn gì phải xin lỗi nhau, hoặc góp ý xây dựng đều nói hết trong dịp này, để rồi ngày đầu năm sẽ không còn phải nhắc gì đến chuyện cũ, chỉ chúc tuổi nhau thật vui vẻ.

Cũng nên nhân bữa ăn này mà trình bày chủ đề sống của năm tới và dự tính trước việc vui xuân của gia đình, thu xếp sao để trẻ em khỏi lây nhiễm thói xấu cờ bạc ngoài xã hội.

3. Tưởng nhớ gia tiên dịp Tết Nguyên Đán
Dịp Tết Nguyên Đán, trong những gia đình theo đúng tinh thần Việt Nam, ẩn dưới những niềm vui rộn rã đầu xuân là cả một thực tại linh thiêng trầm mặc đầy ắp không gian: cõi hữu hình và cõi vô hình đan dệt vào nhau, ông bà tổ tiên đã khuất như thể đang có mặt giữa con cháu một cách thân thiết, gần gũi, linh thiêng và đầy an ủi. Có được bầu khí ấy là nhờ các nghi lễ rất nghiêm túc của phụng tự gia đình.

Các nghi lễ này mở đầu với giờ “cúng đón” (đón ông bà về ăn tết với con cháu) vào ngày 29 hoặc 30 tết, và kết thúc với giờ “cúng đưa” (tiễn chân ông bà) vào ngày mùng 3 hay mùng 4 tết (có nhà cúng đưa từ chiều mùng 2). Người Công giáo biết rằng các linh hồn đã về với Thiên Chúa vẫn hiệp thông với các tín hữu ở trần gian thường xuyên, chứ không riêng mấy ngày tết, cho nên không có chuyện đón ông bà về ăn tết và tiễn ông bà đi. Tuy nhiên, thiết tưởng ngày nay cả nơi đại chúng người không có đạo, không mấy ai còn hiểu hai chữ đón đưa này theo nghĩa đen, nhưng hiểu theo một nghĩa tượng trưng sâu sắc, nhằm xác định một thái độ nội tâm và đánh dấu khoảng thời gian họ muốn dành để tưởng nhớ gia tiên một cách thật sâu đậm, khoảng thời gian họ muốn để cho tâm hồn lắng đọng trong niềm cảm mến biết ơn.

Trong khoảng thời gian ấy, bàn thờ gia tiên lúc nào cũng có khói hương, mỗi ngày người ta cúng hai ba lần vào đúng giờ cả nhà quy định trước. Mỗi gia đình có một người trực ở nhà để giữ cho hương đèn được liên tục, và lo nấu thức ăn, đúng giờ thì bày lên bàn thờ, thành tâm cầu nguyện. Người trực đóng vai đại diện gia đình, luôn ở trong tâm tình cung kính trước sự hiện diện của anh linh tiên tổ, để bày tỏ niềm biết ơn và tưởng nhớ. Ngày nay, cả người không có đạo cũng không mấy ai còn nghĩ ông bà tổ tiên cần “ăn tết”, nhưng người ta thấy rằng sự túc trực để bày tỏ lòng thành là điều cần thiết. Đó là một tâm tình rất thiêng liêng cao quý mà bầu khí của các lễ nghi gia tiên đã đem lại.

Khi đón nhận các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, người Công giáo nhằm đạt được phần tinh hoa, chứ không vụ vào những hình thức rườm rà. Tuy vậy, trong mức độ vừa phải, hình thức vẫn cần thiết. Để phục hồi và phát huy được bầu khí linh thiêng thuận lợi cho tình cảm và hạnh phúc gia đình, rất cần giữ lấy những hình thức diễn tả tối thiểu và chính yếu.

4. Lễ giao thừa
Tối cuối năm, gia đình đoàn tụ, giải trí chung với nhau, cùng thức đón giao thừa. Giây phút kết thúc năm cũ và bắt đầu năm mới là lúc thật ý nghĩa để ca tụng Chúa, Đấng làm chủ thời gian và lịch sử. Khí xuân mới cũng gợi cho ta nhớ đến công trình sáng tạo của Ngài. Chúng ta xin Chúa chúc lành cho một năm mới đang bắt đầu. Sau khi cầu nguyện, mọi người chúc tuổi nhau rồi đi ngủ.

Lễ giao thừa không phải là lễ gia tiên. Lễ gia tiên đã được thực hiện vào lúc “tiên thừa”, tức là lúc đầu hôm đêm cuối năm. Tuần hương thắp lúc giao thừa là để kính thờ Đấng Tạo Hoá và cầu nguyện với Ngài.

5. Lễ Minh niên
Gia đình sum họp buổi sáng đầu năm là điều rất quý giá. Thánh lễ ở nhà thờ xong, mọi người về nhà ngay. Các cháu mừng tuổi ông bà, con cái mừng tuổi cha mẹ, mọi người mừng tuổi nhau.

6. Lễ bổn mạng một người trong gia đình
Trước ngày lễ, người có tên thánh bổn mạng nên dành vài giờ tĩnh tâm cầu nguyện. Ngày lễ, cả nhà đi dự lễ, rước lễ sốt sắng. Kinh tối, theo chương trình trong tuần (nên hỏi linh mục về lời nguyện ngày lễ, chép sẵn từ trước). Nhớ nhắc con thiêng liêng dọn mừng lễ bổn mạng. Hôm lễ, nên mời các con thiêng liêng dùng cơm.

7. Giáp năm ngày rửa tội
Trước ngày lễ, người có lễ kỷ niệm nên dành vài giờ tĩnh tâm cầu nguyện. Ngày lễ, cả nhà đi dự lễ, rước lễ sốt sắng. Trong giờ Kinh tối, gia đình cùng hiệp ý dâng lời tạ ơn, đồng thời cũng nhắc nhớ nhau sống xứng đáng ơn gọi làm Kitô hữu.

8. Thôi nôi hoặc sinh nhật
Đây là dịp vui của toàn gia đình. Những món quà nho nhỏ của mọi người vào dịp này là một cách bày tỏ sự quan tâm và yêu thương nhau. Nên tổ chức một bữa ăn để tạo thêm bầu khí yêu thương. Giờ kinh tối cũng là dịp để toàn thể gia đình cùng hiệp thông với nhau trong niềm vui này.

9. Giáp năm ngày cưới
Mỗi lần phong thánh, Hội Thánh cũng ấn định ngày mừng lễ hằng năm, thường là vào ngày qua đời của vị thánh. Ngày 22-10-2001 vừa qua, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho đôi vợ chồng người Ý là Luy và Maria Beltrame Quattrocchi. Tuy nhiên, để ấn định ngày mừng lễ, ngài không chọn ngày qua đời của họ như thường lệ, mà lại chọn ngày kỷ niệm lễ thành hôn của họ: ngày 25-11-1905.

Trước ngày kỷ niệm lễ thành hôn, nếu có điều kiện, vợ chồng nên tĩnh tâm vài giờ, nhớ lại tình thương Chúa và kiểm điểm đời sống để tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình. Ngày kỷ niệm, vợ chồng, con cái cùng đi dự lễ. Ở nhà, trong bữa ăn kỷ niệm, nên nhắc đến niềm vui này. Những dịp khác trong năm có thể mang những hình thức đơn giản, nhưng hôm nay phải là đại lễ của gia đình. Nếu được, cũng nên mời vài đôi bạn thân thiết cùng dự bữa ăn và chia sẻ kinh nghiệm. Giờ kinh tối, nên dành ít phút để dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, xin Chúa chúc lành và củng cố mối giây yêu thương giữa hai vợ chồng và tất cả gia đình.

10. Ma chay
10.1. Trong thánh lễ an táng cũng như trong những dịp cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm phục sinh, xác tín rằng những người đã tin vào Đức Kitô và đã chịu phép Rửa tội để nên chi thể Ngài, sẽ được cùng Ngài vượt qua sự chết mà đến sự sống. Vì thế, mọi lời dẫn giải, lời ca, lời kinh trong các dịp ấy phải diễn tả được niềm hy vọng vào đời sống vĩnh cửu. Trong tinh thần đức tin, thân nhân của người mới qua đời cũng cần tỏ ra can đảm, bình an, tránh khóc lóc ai oán.

10.2. Người Công giáo đón nhận tất cả những gì tốt đẹp trong truyền thống dân tộc về việc tôn kính ông bà tổ tiên cũng như về việc mai táng, nhưng dứt khoát loại bỏ những chi tiết không phù hợp với đức tin, như coi ngày giờ, coi phương hướng, rải giấy vàng bạc, vẽ bùa, đập chén bát khi động quan, vv...

10.3. Tang phục: Nên có một dấu hiệu nào đó để nói lên tâm tình đau buồn thương tiếc tự nhiên của ta, nhưng không nên để nó che mờ nỗi vui mừng lớn lao đích thực của người con vừa được gọi về nhà Cha và niềm hy vọng vào một ngày kia sẽ gặp lại người ấy trong hạnh phúc quê trời. Tránh những tang phục rườm rà gây cảm tưởng mình hoàn toàn mất mát, thất vọng ê chề và những gì không rõ ý nghĩa.

10.4. Mọi cách diễn tả trong tang lễ cũng như trong việc thờ kính tổ tiên phải có ý nghĩa rõ ràng chính xác, hợp với đức tin và tình yêu thương. Làm một hành vi, ta phải hiểu ý nghĩa của hành vi đó. Ví dụ, việc rảy nước thánh và vái kính thi hài phải được hiểu đúng:

- Rảy nước thánh trên thi hài là để nhớ rằng nhờ nước rửa tội, người tín hữu đã được ghi tên vào số những người được sống đời đời.

- Thắp nhang đèn, vái kính trước thi hài tín hữu là vì thân xác ấy đáng tôn trọng: lúc còn sống, thân xác ấy đã là đền thờ Chúa Thánh Thần, và giờ đây đang đợi chờ ngày sống lại.

10.5. Trong việc cầu nguyện cho người quá cố, Lời Chúa là phần quan trọng, nên chọn đoạn Kinh Thánh cho thích hợp.

10.6. Người hướng dẫn các giờ cầu nguyện nên làm phấn khởi lòng trông cậy của thân nhân người quá cố, cũng như hun đúc niềm tin của mọi người đang hiện diện, nhưng phải liệu sao để không làm phật lòng những người đang buồn phiền.

11. Lễ giỗ
Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa để cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa để cầu xin Chúa sớm giải thoát những người đang phải ở luyện ngục (thường đối với những người mới qua đời, ta hướng tới việc cầu hồn, còn đối với những người đã qua đời từ lâu, ta có thể tin vào lòng Chúa nhân từ mà dâng lời cảm tạ). Ngay cả những vị đã chết mà không chịu phép Rửa tội, ta vẫn tin rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền năng đã có cách cứu vớt họ trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.

Giờ kinh tối sẽ theo ngày trong tuần, với lời nguyện giỗ. Nếu là cầu hồn, thì theo mẫu canh thức cầu nguyện cho tín hữu đã qua đời.

Cũng đừng quên rằng chúng ta có thể cầu nguyện với những bậc tổ tiên đang được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta. Khi còn sống, họ đã yêu thương cầu nguyện cho ta, thì khi đã về với Chúa, họ còn yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ còn hữu hiệu hơn.

Cha xứ dặn dò:
Đừng để cho những nghi lễ này nặng tính hình thức và gây nên gánh nặng tài chính cho gia đình. Cần quan tâm tới ý nghĩa đích thực của nó hay nói theo Chúa Giêsu tới “tinh thần và chân lý” của nó. Trong một lời, nó phải đem đến và phát triển mối quan hệ hài hòa giữa ta với Chúa, Hội Thánh, con người, gia đình và thiên nhiên vũ trụ.

GHI NHỚ:
1. H. Những ngày lễ của gia đình mang ý nghĩa gì?
T. Những ngày lễ của gia đình là dịp để mọi người quây quần bên nhau trong tình yêu thương hiệp nhất, vun xới thêm tình nghĩa, duy trì những nét đẹp truyền thống của gia đình mình.

2. H. Đối với các dịp lễ của gia đình, ta nên tổ chức thế nào?
T. Ta nên tổ chức đơn sơ, vừa phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân tộc, vừa biểu lộ được đức tin Kitô giáo của mình.

GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Ngày lễ nào trong gia đình đã để lại trong anh chị dấu ấn sâu đậm nhất?

2. Những ngày lễ giỗ trong gia đình anh chị được tổ chức thế nào?

3. Anh chị đã làm gì khi đến ngày sinh nhật hoặc ngày lễ bổn mạng của cha mẹ, hoặc anh chị em trong gia đình?

CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa,
Cha đã làm cho chúng con thành một gia đình.
Chúng con cần đến nhau
Chúng con yêu thương nhau.
Chúng con tha thứ cho nhau.
Chúng con làm việc với nhau.
Chúng con vui đùa có nhau
Chúng con cầu nguyện bên nhau.
Cùng với nhau chúng con lắng nghe Lời Chúa
Cùng với nhau chúng con lớn lên trong Đức Kitô
Cùng với nhau chúng con yêu thương mọi người chung quanh
Cùng với nhau chúng con phụng thờ Chúa
Cùng với nhau chúng con hy vọng Nước Trời.
Lạy Chúa,
Đó là những điều chúng con ước nguyện,
Xin giúp chúng con đạt tới 
nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.



[1] x. Mt 22,32
[2] x. Ep 3,14



Thứ Ba, 15 tháng 11, 2016

GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 19


Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình,
thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin (1Tm 5,8).

Nói đến gia đình Việt Nam là nói đến đạo hiếu và tình gia tộc. Bước vào cuộc sống hôn nhân, hai vợ chồng không phải chỉ bước vào cuộc sống riêng tư đóng kín chỉ với riêng hai người, mà còn mở ra với cha mẹ đôi bên, cũng như với anh chị em họ hàng.

Như chúng ta đã biết: sau ba điều răn nói về bổn phận đối với Thiên Chúa, điều răn thứ tư nói về bổn phận thảo kính cha mẹ. Như thế, Kinh Thánh coi hiếu thảo là điều răn thứ nhất và quan trọng nhất trong tương quan giữa người với người[1]. “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa[2]“. Chính Chúa Giêsu, khi đến trần gian đã nêu gương hiếu thảo cho chúng ta: Cuộc sống ở trần gian của Ngài vỏn vẹn chỉ có ba mươi ba năm, nhưng Ngài đã dành ba mươi năm sống hiếu thảo, vâng lời trong gia đình Nadarét[3].

1. Với cha mẹ
1.1. Khi cha mẹ còn sống
Lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ phát xuất từ sự biết ơn đối với những bậc đã cộng tác với Thiên Chúa thông truyền cho mình sự sống, cũng như đã chăm lo nuôi dưỡng và giáo dục mình nên người. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con?” (Hc 7,27-28)

Công đồng Vaticanô II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh[4]“.

Khi cha mẹ còn sống, con cái bày tỏ lòng hiếu thảo qua việc: yêu mến, tôn kính, vâng lời, chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ.

Yêu mến và tôn kính cha mẹ. Thiên Chúa muốn ta thật lòng yêu mến và tôn kính cha mẹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm.

. Trong tư tưởng, ta thực tình nhìn nhận cha mẹ đáng trọng kính, vì đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ, hướng dẫn, gây dựng hạnh phúc cuộc đời cho ta.

. Trong lời nói, ta lựa cách xưng hô và chuyện trò thật khiêm cung, êm ái, không bao giờ dùng những lời nói cứng cỏi, nóng nảy đối với cha mẹ.

. Trong việc làm, ta năng thăm viếng, hoặc thư từ, hỏi han, bày tỏ lòng yêu mến bằng quà biếu, tìm cách làm cho cha mẹ được vui. Khi lo liệu việc trọng đại, dù đã ở riêng, ta cũng nên bàn hỏi cha mẹ vì các ngài có ơn Chúa để giúp ta[5]. “Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ, biết đón trước ý muốn của các ngài, sẵn sàng bàn hỏi và chấp nhận những lời khuyến cáo đúng đắn của cha mẹ. Khi không còn chung sống với cha mẹ, con cái vẫn phải tôn kính, vì lòng tôn kính này bắt nguồn từ sự kính sợ Thiên Chúa, một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần[6]“.

Vâng lời cha mẹ. Lòng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoãn và vâng phục. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn dụ của cha, và đừng ruồng bỏ giáo huấn của mẹ... Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con”(Cn 6,20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13,1).

Khi chưa trưởng thành, con cái phải mau mắn vâng lời cha mẹ trong tất cả những gì hợp luật Chúa, không nên trách móc phàn nàn. “Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20). Ngay cả khi đã trưởng thành và dù đã ở riêng, nếu ta có làm điều gì sai trái mà được cha mẹ nhắc nhở, cần mau mắn vâng theo. Hơn nữa, người con trưởng thành cần biết đón trước điều cha mẹ mong muốn để làm đẹp lòng cha mẹ. Khi cha mẹ lâm chung, có trăn trối điều gì, con cái nên vui lòng tuân giữ. Ngược lại, nếu cha mẹ có ép buộc điều gì trái lương tâm, con cái nên tìm cách giãi bày để cha mẹ cảm thông, chứ không được hùa theo[7].

Chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ. Phải luôn luôn giúp đỡ cha mẹ về phần hồn và phần xác, nhất là khi các ngài già cả, ốm đau, thiếu thốn, cần tận tâm tận lực phụng dưỡng, lo thuốc thang đầy đủ, vui vẻ thăm nom sớm tối. Đây là trách nhiệm của con cái. Đừng vì keo kiệt, ganh tị nhau mà để cha mẹ khổ cực. Phải cầu nguyện cho cha mẹ được mọi ơn lành, lo liệu cho cha mẹ được lãnh các bí tích và dọn mình chết lành. Sách Huấn ca nhắc nhở những người làm con:

Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, 
chớ làm phiền lòng người, khi người còn sống. 
Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, 
ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. 
Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. 
Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi,
và xây dựng đức công chính của người.
Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn,
ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.
(Hc 3,12-16)

Cha xứ giải thích:
Không chỉ cha mẹ cần hiểu con cái, mà con cái cũng cần phải hiểu cha mẹ. Không ai thương chúng ta bằng cha mẹ chúng ta. Chỉ có cha mẹ mới dám chết cho chúng ta khi cần. Cha mẹ làm tất cả vì yêu thương chúng ta. Phải hiểu được điều này để đón nhận, yêu thương và cộng tác. Nếu không vừa lòng, con cái có thể đối thoại nhưng phải luôn trong sự kính trọng với cha mẹ cả trong lời nói, suy nghĩ và hành động.

1.2. Khi cha mẹ qua đời
Khi cha mẹ qua đời, con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Anh chị em cần hoà thuận yêu thương nhau, noi gương cha mẹ để nên lành nên thánh. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.

Hội Thánh Công giáo đón nhận việc thờ cúng ông bà như thế nào? Hội Thánh nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc. Tuy nhiên cần loại trừ những hình thức trái ngược với giáo lý Công giáo.

Cũng cần nâng cao ý thức lịch sử về gia đình: Quan tâm bảo tồn gia phả và những kỷ vật của ông bà cha mẹ đã qua đời. Gia đình nào đã thất lạc gia phả, nên tìm cách dựng lại những gì còn biết được, nên làm càng sớm càng tốt khi những bậc cao niên trong dòng họ còn đủ minh mẫn để cung cấp các dữ liệu họ nắm được. Cũng nên quan tâm lưu giữ những hình ảnh và giấy tờ quan trọng của gia đình để các thế hệ sau có sử liệu.

2. Với họ hàng đôi bên
Đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình. Bởi vậy, cần yêu mến và học cách cư xử với tất cả mọi người trong dòng họ hai bên, như ông bà, chú bác, cô dì, cậu mợ và anh chị em. Cần sống tình gia tộc bằng cách năng lui tới viếng thăm và giúp đỡ theo khả năng của mình.

Cha xứ lưu ý:
Nhiều gia đình Việt Nam nghi ngại và thậm chí ngăn cản con cái trở thành Kitô hữu vì cho rằng “khi theo đạo, người con của họ sẽ bỏ cha mẹ ông bà tổ tiên, nhất là khi họ qua đời sẽ không còn người lo nhang khói nữa”. Chắc chắn nỗi lo này có cơ sở của nó.

Lịch sử truyền giáo trên quê hương Việt Nam đã tạo nên mối lo lắng này. Một số nhà truyền giáo đã buộc các gia đình muốn trở thành Kitô hữu phải phá bỏ bàn thờ tổ tiên và những hình thức tôn kính tổ tiên theo văn hóa Việt Nam. Trong thực hành hôm qua cũng như hôm nay, do giáo dục và sự thiếu hiểu biết, không ít người Công giáo Việt Nam vẫn làm không đúng với những hướng dẫn của Hội Thánh trong việc tôn kính tổ tiên. Bởi đó, hơn bao giờ hết, người Công Giáo Việt Nam cần cố gắng xóa bỏ quá khứ sai trái bằng việc giải thích và nhất là bằng thực hành việc tôn kính tổ tiên như Giáo Hội mong ước. Tôn kính ông bà tổ tiên cha mẹ không chỉ là nhân bản, một giá trị của văn hóa mà là một lệnh truyền của chính Chúa. Bất kính với ông bà tổ tiên là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

GHI NHỚ:
1. H. Tại sao con cái phải hiếu thảo đối với cha mẹ?
T. Vì cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh thành, nuôi dưỡng và giáo dục ta nên người. Ngoài ra, đây còn là điều răn Chúa đã truyền dạy.

2. H. Con cái biểu lộ lòng hiếu thảo với cha mẹ như thế nào?
T. Con cái bày tỏ lòng hiếu thảo qua những việc sau đây:
- Một là khi các ngài còn sống thì phải yêu mến, tôn kính, vâng lời, chăm sóc và giúp đỡ.
- Hai là khi các ngài qua đời phải lo an táng, cầu nguyện và xin lễ.
- Ba là anh chị em trong nhà cần hoà thuận yêu thương nhau, noi gương cha mẹ để nên lành thánh.

3. H. Ta cần cư xử thế nào với họ hàng đôi bên?
T. Ta phải kính trọng và yêu mến mọi người trong gia tộc; năng lui tới và giúp đỡ theo khả năng mình.

GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Có người nói: “Theo đạo Chúa là bỏ ông bà”. Anh chị trả lời thế nào?

2. Anh chị đã biết gì về cha mẹ, anh chị em và họ hàng của bạn mình?

CẦU NGUYỆN:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha đã muốn biểu lộ tình Cha yêu thương chúng con qua tấm lòng yêu thương của người cha người mẹ trần thế. Cha còn muốn rằng, sau Cha, chúng con phải tôn kính cha mẹ vì các ngài đã có công sinh thành và dưỡng dục chúng con nên người. Xin Cha chúc lành, nâng đỡ và ban mọi ơn lành hồn xác cho cha mẹ chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết biết lấy tình yêu mà đáp lại tình yêu của các ngài bằng cách sống hiếu thảo, yêu mến, tôn kính, vâng lời và phụng dưỡng các ngài.

Xin cho các ngài, ngay ở đời này tìm thấy niềm hạnh phúc được phục vụ Cha và yêu mến Cha. Và xin cho chúng con một ngày kia được sum họp với nhau trên Nước Trời. Amen.



[1] x. Ep 6,1-2; Is 49,15; Is 63,16; 64,7
[2] GLHT 2197
[3] x. Lc 2,51-52
[4] MV 48
[5] x. Hc 3,1-16
[6] GLHT 2217
[7]x. Lc 2,51-52; Dt 5,8; Mt 10,34-39; GLHT 2217



GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 18


Có con cái ư? 
Hãy dạy dỗ và uốn nắn chúng ngay thuở còn thơ (Hc 7,23).

Hạnh phúc của cha mẹ là được thấy con cái nên người. Ngược lại, nếu con cái hư hỏng sẽ là một nỗi đắng cay phiền muộn. Kết quả đáng mừng hay đáng tủi ấy tuỳ vào sự bận tâm giáo dục của cha mẹ ngay từ đầu.

Giáo dục con cái không phải chỉ là một bổn phận quan trọng, mà còn là một vinh dự lớn lao của bậc làm cha làm mẹ, bởi vì được cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo nên những con người mới, những người con của Thiên Chúa. Đó là việc trồng người. Không chỉ trồng nên những người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh mà còn trồng nên những vị thánh. Vì thế, giáo dục con cái không phải là một việc tuỳ hứng, nhưng cần có một đường hướng, một kế hoạch và những phương pháp.

1. Quyền và bổn phận giáo dục con cái
Quyền và bổn phận giáo dục con cái là cái cốt lõi của việc làm cha làm mẹ, bởi vì nó liên quan đến việc lưu truyền sự sống. So với những người khác, thì vai trò giáo dục của cha mẹ là khởi nguồn và là cơ bản vì tương quan yêu thương độc nhất vô nhị giữa cha mẹ và con cái. Vai trò giáo dục của cha mẹ không ai thay thế được và cũng không nhường cho ai được, nên không thể nào khoán trắng cho người khác hoặc để người khác chiếm đoạt.

Yếu tố nền tảng cơ bản nhất đánh dấu vai trò giáo dục của cha mẹ là tình phụ tử và mẫu tử. Chính tình yêu thương này, như nguồn mạch xuất phát, trở thành linh hồn và quy tắc để gợi ra những sáng kiến và hướng dẫn cho mọi hoạt động giáo dục cụ thể, làm cho chúng thấm đượm những giá trị của sự dịu dàng, kiên nhẫn, nhân hậu, phục vụ, vô vị lợi, hy sinh, là những hoa trái quý giá nhất của tình yêu[1].

Cha xứ giải thích:
Không ai thay thế được cha mẹ trong việc giáo dục con cái vì mối liên hệ độc nhất vô nhị giữa họ. Không như các nhà giáo dục khác, sự giáo dục của cha mẹ với con cái đến từ tình yêu thương đích thực và cả khát vọng cháy bỏng muốn con nên người, nên con Chúa. Chính nhờ cha mẹ và từ cha mẹ, đứa trẻ nhận được những bài học giáo dục đầu tiên cả về nhân bản và tâm linh. Khoa học ngày nay đã có những nghiên cứu về ảnh hưởng của người mẹ đối với đứa con ngay khi cô ấy hay cậu ấy chưa được sinh ra. Chính bởi mối liên hệ và tầm quan trọng của việc giáo dục tuổi thơ mà việc giáo dục con cái không thể trao cho người khác hoặc để bị cướp mất. Do hoàn cảnh xã hội và kinh tế, nhiều bậc làm cha mẹ đã sớm tách khỏi con mình sau khi sinh để giao phó cho bảo mẫu chăm sóc và xa hơn, khoán trắng cho các nhà trẻ hay các cơ sở giữ trẻ tư nhân. Ngày càng nhiều trường hợp trẻ em bị bạo hành hoặc bị đối xử dã man dẫn đến những tổn thương cả về thể lý lẫn tinh thần trong các cở sở giáo dục.

2. Phải dạy từ lúc nào?
Công đồng Vaticanô II ngỏ lời với các bậc làm cha làm mẹ: “Vì đã lãnh nhận ân sủng cũng như bổn phận của bí tích hôn phối nên cha mẹ phải dạy dỗ con cái ngay từ nhỏ[2]“. Cha ông chúng ta cũng thường nói:

Uốn cây từ thưở còn non,
Dạy con từ thưở con còn đương thơ.

“Còn đương thơ” hay “ngay từ nhỏ” ở đây có nghĩa là ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ. Khoa học ngày nay cho thấy: Người mẹ ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của đứa con ngay từ lúc phôi thai. Việc giáo dục này được gọi là thai giáo. Trong thời gian này, các tâm tình và thái độ ứng xử của cha mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính đứa con sắp chào đời. Do đó, những bậc cha mẹ thương con sẽ hết sức lưu ý, để trong thời gian mang thai sống thật lành mạnh về luân lý và tâm linh.

Tuy nhiên, thời gian thuận tiện nhất để trực tiếp giáo dục con cái, đó là khi đứa con bắt đầu có trí khôn, bắt đầu nhận biết về những điều cha mẹ dạy bảo. Lúc bấy giờ gia đình sẽ trở nên mái trường đầu tiên dạy cho đứa bé những bài học làm người. Trong mái trường đó, cha mẹ chính là những “thầy cô” được tín nhiệm và yêu thương hơn cả, vì cha mẹ là những người sống gần con cái, hiểu biết con cái và yêu thương con cái hơn hết.

Cha xứ giải thích:
Khoa học ngày càng chứng tỏ rằng những trải nghiệm của tuổi thơ (chilhood) là vô cùng quan trọng cho việc hình thành nhân cách và thần cách của các em sau này. Có thể nói, tâm hồn và tâm trí của trẻ thơ như những tờ giấy trắng tinh mở sẵn để tiếp nhận những nét vẽ đầu tiên từ cha mẹ và những người thân yêu. Những ký ức tuổi thơ vì thế khó có thể phai nhòa trong cuộc sống của các em sau này. Chấn thương tuổi thơ sẽ ảnh hưởng tới mối quan hệ và hành vi của trẻ khi bước vào tuổi trưởng thành. Nhiều bằng chứng cho thấy mối quan hệ tội phạm của tuổi vị thành niên và người trưởng thành liên quan tới những tổn thương của tuổi thơ.

3. Phải dạy những gì?
Mục tiêu của của việc giáo dục Kitô giáo là giúp con cái trở thành người và trở thành người con Thiên Chúa. Khuôn mẫu của con người hoàn hảo đó là Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa đã hạ sinh làm người để nên mẫu mực cho chúng ta noi theo[3].

Trong việc giáo dục con cái, phải để ý đến mặt nhân bản cũng như mặt đức tin.

3.1. Giáo dục nhân bản
Nền giáo dục nhân bản phải bao gồm cả ba phương diện: đức, trí và thể dục.

Thể dục: Dạy con vệ sinh sạch sẽ, giữ gìn sức khoẻ (tình trạng của trẻ em thừa hoặc thiếu dinh dưỡng trong các gia đình gia tăng; các bệnh về vệ sinh răng miệng, tiêu hóa… nơi các trẻ cũng gia tăng đáng kể. Tình trạng học thêm của các học sinh hoặc việc các em dành quá nhiều giờ cho truyền hình, điện thoại khiến các em không có giờ cho thể dục khiến các em bị béo phì, cận thị, trầm cảm… Trong một lời, việc giáo dục thể lý chưa được chú trọng đúng mức).

Trí dục: Trau dồi cho chúng về học vấn, về nghề nghiệp, để chúng có thể sống tự lập, xây dựng tương lai cuộc đời mình, góp phần xây dựng xã hội (giáo dục trí dục phải tạo cho các em có suy nghĩ độc lập, tránh học thuộc lòng. Cũng nên tập cho con cái có thói quen đọc sách, học thêm ngoại ngữ để nâng cao kiến thức của các em).

Đức dục: Trừ khử những thói hư tật xấu và tập luyện những tính tốt. Nhất là bốn nhân đức cột trụ làm nền tảng cho những nhân đức khác: khôn ngoan, công bằng, tiết độ và dũng cảm.

. Khôn ngoan: Biết khiêm nhường lắng nghe và mau mắn vâng lời; biết suy nghĩ cân nhắc trước khi làm và khi làm xong sẽ dừng lại một chút để kiểm điểm và rút kinh nghiệm; biết xem xét và chuẩn bị kỹ để chu toàn mọi bổn phận thật chu đáo cũng như để ứng xử đúng trước những tình thế mới (thận trọng trong suy nghĩ, lời nói, hành động và trong tiếp cận xử lý các thông tin trong một thế giới mà vai trò của công nghệ thông tin có thể định hướng và bóp méo sự thật).

. Công bằng: Chăm chỉ làm tròn bổn phận; yêu thương mọi người, tôn trọng của cải và quyền lợi của họ; tôn trọng của chung và biết lo cho công ích; luôn thành thật trong lời nói và việc làm; không bao giờ gian lận (công bằng của Kitô giáo phải luôn gắn với tình yêu. Đối với Thiên Chúa, công bằng là lòng thương xót và tha thứ. Tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa không là hình phạt hay loại trừ nhưng là tình yêu. Thiên Chúa sai con mình đến thế gian không để luận phạt nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được sống. Chúa Giêsu tuyên bố, Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất).

. Tiết độ: Có kỷ luật, đúng giờ giấc và chừng mực trong những điều nhỏ mọn hằng ngày, trong ăn uống cũng như giải trí; tập cân nhắc đúng bậc thang giá trị theo tinh thần Kitô giáo và biết chọn lựa cách ý thức. Biết tiết kiệm. Dạy cho con cái biết giá trị của lao động cũng như giá trị thực sự của của cải vật chất. Hướng dẫn con cái chọn thú vui giải trí cũng như bè bạn (nhân đức là sự trung dung. Con người phải tìm kiếm sự quân bình trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Đánh mất sự cân bằng này, con người sẽ rơi vào tình trạng quá khích, quá tải và cuối cùng phá vỡ mối quan hệ hài hòa với Chúa, với người và với đời).

. Dũng cảm: Biết can đảm đứng vững trong điều tốt; biết chấp nhận những sai lỗi của mình, tự tin và tự lập, biết lãnh nhận trách nhiệm và hậu quả do công việc mình đã làm (dám đối diện với sự thật và bảo vệ sự thật đến cùng mà không sợ bị trả giá. Có những sự thật làm chúng ta đau lòng nhưng chỉ có sự thật mới giải phóng con người chúng ta. Trong xã hội hiện tại, sự gian dối đang là một căn bệnh trầm kha tấn công mọi tầng lớp, thậm chí ngay trong môi trường giáo dục học đường. Cha mẹ cần dạy cho con mình lòng can đảm qua cách sống của mình – một lối sống không tìm yên thân, không để cho sự sợ hãi làm cho mình bị tê liệt, nhưng chiến đấu kiên cường cho sự thật).

Đối với người Việt Nam, những đức tính ấy được diễn tả qua khái niệm “trung dung”, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Những đức tính này giúp ta biết yêu thương, có lòng biết ơn, cộng tác và nâng đỡ người khác, nói năng cũng như cư xử lễ độ và tế nhị, biết suy nghĩ cân nhắc và biết tạo nên sự tin cậy lẫn nhau.

Riêng đối với nữ giới cần thêm: Công, dung, ngôn, hạnh.

Giáo dục giới tính: Ngoài ra, trong việc giáo dục nhân bản cũng phải để ý đến việc giáo dục giới tính, hướng dẫn con cái về phái tính và tính dục. Việc giáo dục này nhằm mục đích giúp con cái có một sự hiểu biết về tính dục phù hợp với lứa tuổi và tầm nhận thức, để chúng sống trong sạch, trưởng thành, xứng đáng là người nam, người nữ như ý Chúa. Trong việc giáo dục này, cũng cần dạy cho con cái biết sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông, đặc biệt về phim ảnh, internet.

Nền giáo dục nhân bản này là điều hết sức cần thiết. Đức Thánh Cha nói: “Dù phải đương đầu với những khó khăn, mà ngày nay lại thường là những khó khăn to lớn trong trách nhiệm giáo dục con cái, bậc cha mẹ cần phải tin tưởng và can đảm giáo dục con cái họ theo những giá trị chính yếu của đời người. Trẻ em phải lớn lên trong một sự tự do chân chính trước các của cải vật chất, biết chọn một nếp sống giản dị và khắc khổ, vì xác tín mạnh mẽ rằng: giá trị của con người là do cái mình làm, hơn là do cái mình có.”[4]

Cha xứ giải thích:
Chúng ta không thể cấm con cái tiếp cận các phương tiện thông tin bởi đó là xu thế của thời đại. Mặt khác, các phương tiện tự nó không xấu, trái lại có ích trong học tập, nghiên cứu và cuộc sống con người khi chúng ta biết làm chủ thay vì nô lệ nó. Trong thực tế, các phương tiện như truyền hình, internet, điện thoại và các phương tiện khác chưa được sử dụng cách tốt đẹp và mang lại lợi ích cho người dùng mà trái lại, do sự buông lỏng của cha mẹ, nó chủ yếu được các em dùng cho việc giải trí và tiếp cận những trang mạng có hại cho cuộc sống tâm hồn của các người trẻ.

Xem đó chúng ta thấy: Để trở thành một người Kitô hữu, thì tiên vàn phải là một người cho đúng nghĩa của nó. Hay nói một cách khác: Phải là người trước đã, rồi sau đó mới có thể là người Kitô hữu.

3.2. Giáo dục đức tin
Là người có đạo, ngoài nền giáo dục nhân bản, cha mẹ còn phải cho con cái nền giáo dục Công giáo, nghĩa là ngay từ hồi còn tấm bé, đã phải dạy cho con cái biết mến Chúa yêu người, biết tuân giữ những giới luật của Chúa, biết tham dự những công việc đạo đức, biết siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhờ đó con cái sẽ trở thành những Kitô hữu đích thực, nghĩa là những người có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô trong cuộc sống, cũng như trở thành những người tín hữu đích thực, nghĩa là những người có đức tin và sống đức tin của mình giữa lòng cuộc đời.

Công đồng Vaticanô II nói: “Vợ chồng đã lãnh nhận phẩm giá và chức vụ làm cha mẹ, sẽ chăm lo chu toàn bổn phận giáo dục, nhất là về phương diện tôn giáo, vì bổn phận này liên hệ đến họ trước[5]“.

Công đồng Vaticanô II cũng xác định nội dung của việc giáo dục Kitô giáo như sau: “Việc giáo dục này không những chỉ giúp nhân vị được trưởng thành, nhưng chính là nhằm giúp những người đã được rửa tội, để nhờ hiểu biết sâu xa hơn mầu nhiệm cứu rỗi, thì càng ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh, biết cách thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (x. Ga 4,23), nhất là qua việc cử hành phụng vụ, cũng như được huấn luyện để biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý (Ep 4,22-24), và nhờ vậy họ đạt tới con người toàn thiện, chín chắn đạt tới sự sung mãn của Đức Kitô (x. Ep 4,13), góp phần làm cho Nhiệm thể được tăng trưởng[6].

Trong việc giáo dục đức tin, cũng cần để ý tới việc giúp con cái nhận ra ơn gọi của chúng và giúp chúng đáp lại ơn gọi đó.

Khi con cái bắt đầu học giáo lý, cha mẹ nên quan tâm tìm hiểu hệ thống các lớp giáo lý trong giáo xứ mình. Ngay cả khi con cái chưa đi học, nếu được, họ cũng nên tham gia giảng dạy hoặc hỗ trợ cho các lớp giáo lý, bởi đó là cách đơn giản để nâng cao nhận thức giáo lý của mình và tự trang bị khả năng đào tạo đức tin cho con cái. Một số nơi, vì giới phụ huynh ít tham gia, việc giảng dạy giáo lý được giao cho lớp trẻ và nói tới Giáo lý viên là người ta dễ nghĩ tới những anh chị chưa lập gia đình. Thật ra, đội ngũ Giáo lý viên phải là những người có bề dày kinh nghiệm sống, cho nên Hội Thánh rất ước mong các đôi bạn quảng đại chia sẻ sứ mạng này.

Cha xứ giải thích:
Một trong những hiểu lầm tai hại khi nghĩ rằng giáo dục đức tin chỉ dừng lại ở việc dạy cho trẻ một số kiến thức giáo lý về Chúa và Giáo Hội và không biết rằng, đức tin Kitô giáo trước hết là việc gặp gỡ và dấn bước theo Đức Kitô và những giá trị Tin Mừng của Ngài. Cần cho trẻ hiểu Đức Kitô là ai và có ảnh hưởng cụ thể nào qua cuộc sống của các em qua việc học hỏi và sống Tin Mừng. Dừng lại ở việc thuộc một vài câu kinh, một số chân lý đức tin, chúng ta vô tình tạo nên những Kitô hữu không biết Chúa Kitô và do đó, không yêu mến và tin tưởng vào Ngài.

4. Để việc giáo dục đạt kết quả tốt
4.1. Đồng tâm nhất trí
Cha mẹ phải nhất trí với nhau trong đường hướng và phương thức giáo dục con cái: Tìm hiểu tính tình, năng khiếu của con cái và phải biết dùng những phương pháp thích hợp để giúp chúng đạt được mục đích. Công đồng xác quyết:

“Gia đình là một trường học phát triển nhân tính, nhưng để gia đình có thể sống trọn vẹn và chu toàn sứ mệnh mình, cần phải biết hòa hợp tâm hồn: vợ chồng phải cùng nhau bàn định, cũng như cha mẹ phải ân cần cộng tác trong việc giáo dục con cái[7]“.

Ngoài việc đồng tâm nhất trí với nhau, cha mẹ còn phải biết cộng tác với những nhà giáo dục khác, đặc biệt là các thầy cô và các Giáo lý viên.

Cha xứ giải thích:
Để thuyết phục con cái học biết Chúa Kitô và tin yêu vào Ngài, cha mẹ cũng phải để cho trẻ cảm nghiệm được điều này qua cuộc sống của mẹ cha, nhất là sự hiệp nhất yêu thương giữa họ. Cha mẹ sẽ là phản chứng khi cuộc sống hôn nhân của họ đầy tràn những bất hòa, xung khắc và chia rẽ.

4.2. Làm gương sáng
Kể từ lễ đính hôn, bình thường người ta chỉ còn hơn một năm để trở thành nhà giáo dục. Cách hữu hiệu nhất để biến mình thành nhà giáo dục là cương quyết sống những gì mình muốn truyền đạt cho con cái. Khi cha mẹ thăng tiến chính bản thân, nêu gương đời sống tốt đẹp về nhân cách, đạo đức và các khả năng khác, con cái sẽ noi theo. Đúng như người xưa vẫn nói:

- Cha nào con nấy,
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.

Thật vậy, đứa bé, nhất là khi còn nhỏ, chưa có đủ trí khôn để phân biệt điều phải và điều trái, điều tốt và điều xấu. Nó thường bắt chước những gì cụ thể đập vào mắt nó. Thấy người lớn nói và làm thế nào, nó sẽ bắt chước mà làm như vậy. Vì thế, gương sáng của cha mẹ là điều rất cần thiết trong việc giáo dục con cái. Cha ông ta thường nói:

Lời nói như gió lung lay, 
Việc làm như tay lôi kéo.

Công đồng cũng xác quyết: “Được cha mẹ hướng dẫn bằng gương sáng và kinh nguyện gia đình, con cái và tất cả những ai sống trong khuôn khổ gia đình sẽ gặp được con đường nhân ái, cứu độ và thánh thiện dễ dàng hơn[8]“.

4.3. Tạo bầu khí gia đình đầm ấm
Cần tạo bầu khí gia đình lành mạnh, cởi mở, thánh thiện, hoà thuận, lạc quan và biết tín nhiệm nhau. Trong Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, Công đồng Vaticanô II nói: “Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã hội trở nên dễ dàng. Do đó Gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn thể[9]“.

Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 nơi số 12 viết: “Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa”.

Cha xứ giải thích:
Con cái sẽ tìm cách đi khỏi gia đình và thích sống ngoài gia đình là kết quả của việc chúng phải sống và chịu đựng bầu khí nặng nề, ô nhiễm của gia đình các em đang sống. Ngược lại, đứa trẻ sẽ không bao giờ chấp nhận ly tán giữa cha mẹ và không muốn ly tán vì nhận ra bầu khí gia đình êm ấm và thuận hòa.

4.4. Tìm hiểu con cái
Giữa cha mẹ và con cái, giữa thế hệ già và thế hệ trẻ luôn có một khoảng cách. Nếu không chịu tìm hiểu con cái, công việc giáo dục của cha mẹ sẽ không đạt được những kết quả mong muốn đã đành, mà còn gây nên những bực bội và oán trách. Quả thật, giữa cha mẹ và con cái luôn có một bức tường ngăn cách. Bức tường này chính là tuổi tác. Vì tuổi tác chênh lệch, nên thời gian và không gian của hai thế hệ già và trẻ cũng khác biệt, để rồi từ môi trường sống ấy đã phát sinh những dị biệt, những bất đồng.

Giáo dục có nghĩa là hướng dẫn, uốn nắn và làm cho tốt đẹp hơn. Vì thế, việc đầu tiên cần thực hiện ngay, đó là phải tìm hiểu con cái, phải biết con cái nghĩ gì, muốn gì, nói gì và làm gì thì mới có thể hướng dẫn chúng một cách hữu hiệu.

Điều gì tốt nơi con cái, cần biết duy trì và cổ võ để được liên tục phát triển, còn điều gì xấu, lo nhắc bảo và sửa sai bằng những lời lẽ ôn tồn và tế nhị, thành thực và yêu thương.

Có tìm hiểu con cái, cha mẹ mới cảm thông và xích lại gần con cái hơn, nhờ đó lấp đầy được hố sâu ngăn cách giữa già và trẻ, một hố sâu muôn thuở trong gia đình cũng như ngoài xã hội, đã tạo nên những mối bất bình sâu xa giữa cha mẹ và con cái.

Cha xứ giải thích:
Bước quan trọng của giáo dục là xây dựng lòng tin tưởng và sự kính trọng nơi con cái với cha mẹ. Như một kết quả, con cái có khả năng bày tỏ lòng mình với cha mẹ qua đối thoại chân thành và cởi mở với nhau. Cha mẹ cần đặt mình vào vị trí của con cái để có thể hiểu chúng từ bên trong. Một khi trở nên bạn đồng hành, cha mẹ dần dà nên người hướng dẫn con cái mình lớn lên trong chính môi trường của nó. Theo cách nói của Chúa Giêsu, giáo dục trước hết là nên bạn hữu với nhau. Cha mẹ cũng đừng quên để con cái có thể hiểu những lo lắng, hy vọng và ước muốn của mình. Bạn không thể làm cho người khác mở lòng ra với bạn nếu trước tiên bạn không làm cho người đó tin tưởng và kính trọng bạn.

4.5. Kiên nhẫn trong việc giáo dục
Uốn cây, cần phải kiên nhẫn, bằng không nó sẽ gãy. Vì thế, người xưa đã từng khuyên: Dục tốc bất đạt. Vội vã sẽ không thành.

Trẻ con thường ham chơi và mau quên. Cho nên nói một lần mà thôi chưa đủ, chúng ta phải nói lần nữa và lần nữa. Chúng ta phải nhắc đi nhắc lại để những lời khuyên nhủ được thấm dần vào đầu óc của chúng.

Đừng bao giờ thất vọng và nản chí trong việc uốn nắn sửa dạy con cái, bởi vì đó là một ơn gọi, một thiên chức cao cả mà Chúa đã dành cho chúng ta, những bậc làm cha và làm mẹ.

Cha xứ giải thích:
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về truyền giáo như một quá trình gieo giống và nó đòi hỏi người gieo giống kiên nhẫn đợi chờ nó sinh ra kết quả. Trong dụ ngôn người gieo giống – nhà giáo dục – cần có tinh thần lạc quan. Đừng để cho những bóng tối, mất mát và thất bại khiến ta ngại ngần gieo giống. Hãy nhìn vào kết quả ngày mai để tung gieo hạt giống vào lòng con cái, ta sẽ có ngày được gặt với tác động của Thánh Thần Thiên Chúa.

4.6. Cầu nguyện cho con cái
Một trong những điều mà bậc làm cha làm mẹ cần nhớ, đó là ý thức mình là những người cộng tác của Thiên Chúa: cộng tác trong việc vun trồng sự sống, cộng tác trong việc truyền sinh cũng như trong việc giáo dục con cái. Một trong những ơn của bí tích Hôn phối là giúp hai vợ chồng nên thánh trong đời sống vợ chồng, trong việc đón nhận và giáo dục con cái[10]. Bởi vậy, trong việc giáo dục con cái, hai vợ chồng cần chạy đến với Chúa, bởi vì “Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5). Đến với Chúa để xin Ngài soi sáng và hướng dẫn cách thức dạy dỗ. Cầu nguyện cho con cái, đặc biệt trong những giai đoạn phát triển khó khăn của chúng.

Sau cùng và hết sức quan trọng, để biết dạy dỗ con em, ta cần biết đến với vị Thầy tối cao của nhân loại là Chúa Giêsu Kitô: “Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần cho ta để ta học được sự hiền lành và khiêm nhường cần có.

Cha xứ giải thích:
Không có thầy các con không thể làm được gì. Thiên Chúa không làm thay chúng ta nhưng sẵn sàng giúp chúng ta đạt tới thành công như thánh Phaolô đã xác tín: “Tôi trồng, Apôlô tưới nhưng Thiên Chúa là Đấng cho mọc lên”.

GHI NHỚ:
1. H. Vì sao giáo dục con cái là bổn phận quan trọng nhất của cha mẹ?
T. Vì cha mẹ được cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo nên những con người mới, những người con của Thiên Chúa. Bổn phận này không ai thay thế được.

2. H. Phải giáo dục con cái những gì?
T. Ngay từ lúc con cái còn tấm bé, cha mẹ đã phải cho chúng một nền giáo dục nhân bản, đồng thời còn phải cho chúng một nền giáo dục Công giáo, giúp chúng trở thành những Kitô hữu trưởng thành.

3. H. Làm sao để việc giáo dục đạt kết quả tốt?
T. Để đạt kết quả tốt trong việc giáo dục con cái, cha mẹ cần phải:
- Một là đồng tâm nhất trí với nhau.
- Hai là nêu gương trước những gì mình muốn truyền đạt.
- Ba là tạo bầu khí yêu thương trong gia đình.
- Bốn là tìm hiểu con cái.
- Năm là kiên nhẫn trong việc giáo dục.
- Sáu là cầu nguyện cho con cái.

SUY NGHĨ:
1. Anh chị có suy nghĩ gì về việc sử dụng đòn vọt trong việc dạy bảo con cái?

2. Đâu là những thái độ “bất cập” trong việc giáo dục con cái mà cha mẹ thường hay mắc phải?

3. Muốn thành công trong việc giáo dục con cái, đối với anh chị, điều nào là quan trọng nhất?

CẦU NGUYỆN:
Lạy thánh Giuse và Mẹ Maria, xưa kia ở Nadarét, hai Đấng đã được diễm phúc đón nhận Con Thiên Chúa làm con của mình. Hai Đấng đã chu toàn bổn phận làm cha làm mẹ trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và tặng ban cho nhân loại một người con tuyệt vời là Chúa Giêsu. Ngày hôm nay chúng con cũng muốn nhìn vào gương Thánh Gia để xây dựng gia đình chúng con. Chúng con muốn đóng góp cho xã hội những người công dân tốt và cho Hội Thánh những Kitô hữu thánh thiện. Xin giúp chúng con ngay từ bây giờ biết chuẩn bị cho mình những khả năng cần thiết trong việc nuôi dưỡng và giáo dục những đứa con mà Chúa sẽ gửi đến cho chúng con sau này. Ước chi chúng con sẽ cố gắng hoàn thiện hơn từng ngày để trở thành những người cha người mẹ tốt lành và gương mẫu. Amen.


[1] x. GĐ 36
[2] GD 3
[3] x. GLHT 459; 520
[4] GĐ 37
[5] GS 48
[6] x. GĐ 39
[7] GS 52
[8] MV 48
[9] GD 3
[10] x. GLHT 1641