Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016

GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 2

GIÁO LÝ HÔN NHÂN

Giáo xứ Thánh Linh

Bài 2. Hôn nhân Công giáo

Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh (Ep 5,31-32).

Khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ trở thành vợ chồng theo luật tự nhiên. Hôn nhân của họ là một khế ước, có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu, hôn nhân không chỉ là một khế ước, mà còn là một bí tích. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Hôn nhân là bí tích tình yêu... Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời”.

1. Hôn nhân Công giáo là một bí tích

Từ xưa đến nay, hầu như nền văn hoá nào cũng coi hôn nhân là việc linh thiêng. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú rể thường xin trời đất, thần linh hoặc ông bà tổ tiên chứng giám và phù hộ cho cuộc hôn nhân của mình qua một nghi lễ công khai và long trọng.

Trong Cựu Ước, giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài thường được ví như một cuộc hôn nhân thuỷ chung, duy nhất[1]. Sang Tân Ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh[2]Đức Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới[3]. Còn Hội Thánh được ví như cô dâu, đã được Đức Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống[4].

Giải thích của cha xứ:
Cựu ước theo nghĩa của từ (Cựu= cũ; ước= giao ước) là giao ước cũ. Tân ước là giao ước mới. Kinh Thánh của Hội Thánh Công Giáo chia thành 2 phần và bao gồm 73 quyển: phần Cựu ước gồm 46 quyển trình bày lịch sử ơn cứu độ từ sáng tạo đến trước Chúa Kitô, cách đặc biệt Lịch Sử Dân Do Thái, dân được Thiên Chúa tuyển chọn; phần Tân Ước gồm 27 quyển trình bày con người, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu (trong các Tin Mừng theo thánh Marcô, Matthêu, Luca  và Gioan); Giáo hội thời sơ khai (sau khi Chúa Giêsu về trời) được trình bày trong sách Công Vụ Tông Đồ; và thư thánh Phaolô tông đồ, các thư tông đồ khác triển khai giáo huấn của Chúa Giêsu cho các cộng đoàn đức tin vừa được thiết lập; cuối cùng là sách Khải Huyền.

“Ngay khi bắt đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã có mặt trong một tiệc cưới tại Cana và đã làm dấu lạ đầu tiên, biến nước thành rượu để giúp hai họ nối tiếp cuộc vui (Ga 2,1-11). Sự hiện diện này được Hội Thánh hiểu như là một chứng thực của Đức Kitô đối với giá trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân[5]”.

Giải thích của cha xứ:
Bề ngoài, Chúa Giêsu hiện diện như một một vị khách trong họ hàng nhưng bên trong, Ngài là Con Thiên Chúa làm người. Bởi đó, Chúa Giêsu không chỉ hiện diện mà con chúc lành và cứu giúp để hôn ước của họ đầy tràn niềm vui hơn. Nói cách khác, trong hôn nhân Công Giáo, qua lời cam kết mà đôi bạn tự do và ý thức trao cho nhau trước mặt thừa tác viên hợp pháp của Hội Thánh cùng những người làm chứng, Chúa Giêsu liên kết họ nên một và tuôn đổ ân sủng của Ngài trên họ.

“Trong khi rao giảng, Chúa Giêsu dạy rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của việc phối hợp giữa người nam và người nữ như thuở ban đầu Đấng Tạo Hóa đã muốn. Sự phối hợp này là bất khả phân ly. Việc Môsê cho phép bỏ vợ là một nhượng bộ trước lòng chai dạ đá của người nam (x. Mt 19,3-8)[6]”.

“Khi tái lập trật tự ban đầu của công trình sáng tạo đã bị tội lỗi làm xáo trộn, Chúa Giêsu đã ban sức mạnh và ân sủng để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân trong chiều kích mới của Nước Thiên Chúa. Ân sủng của hôn nhân Kitô giáo là hoa quả của Thánh Giá Đức Kitô, nguồn mạch mọi đời sống Kitô hữu[7]”.

Giải thích của cha xứ:
Sách sáng thế cho biết, trước khi Adam-Eva chưa phạm tội, họ sống trong sự thân mật với Thiên Chúa. Chiều đến Thiên Chúa xuống đi dạo trong vườn với ông bà. Ông bà trần truồng nhưng không xấu hổ với nhau điều này diễn tả tâm hồn của họ không bị nhiễm bẩn bởi dục tình. Giáo lý gọi tình trạng của con người khi chưa phạm tội là “tình trạng công chính ban đầu”.

Sau khi tội lỗi đi vào gia đình của Adam-Eva qua sự bất tuân lệnh Chúa của họ, ông bà sợ gặp mặt Thiên Chúa, trốn tránh sự hiện diện của Ngài. Nhưng trước đó, ông bà nhận ra mình trần truồng và xấu hổ nên lấy lá che lại. Tâm hồn và đôi mắt của họ mất đi sự trong suốt rồi. Nói cách khác, tội lỗi không chỉ làm làm xáo trộn mối quan hệ của họ với Chúa mà con với người khác nữa.

Adam không còn nhận ra như bạn đời trợ tá tương xứng nữa nhưng như mối họa dẫn anh vào con đường tội lỗi. Eva phủ nhận thái độ của Adam, chồng cô ấy khi đổ lỗi cho con rắn. Gia đình đầu tiên bị xáo trộn từ đây và hậu quả kế tiếp là con cái họ xung đột và giết hại lẫn nhau.

Chúa Giêsu đến giao hòa con người với Chúa và con người với nhau. Ngài đến mang cho chúng ta ơn tha thứ và hơn thế nữa, cho chúng ta sự sống dồi dào, sự sống đời đời qua cái chết của Ngài trên thập tự giá. Gia đình bởi đó cũng được cứu bởi ân sủng của Đức Giêsu và trở thành cộng động của tình yêu: Tình yêu nơi Thiên Chúa Ba Ngôi; Tình Yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh.

“Thánh Phaolô cho thấy điều đó khi nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh để thánh hóa Hội Thánh” (Ep 5,25-26). Ngài còn nói thêm: “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5, 31-32)[8].

Giải thích của cha xứ:
Chúa Kitô yêu Hội Thánh nên hiến mình vì Hội Thánh để xây dựng một Hội Thánh không vết nhơ, không nhăn nheo nhưng thánh thiện và tinh tuyền do đó, chồng yêu vợ như Chúa Kitô yêu Hội Thánh là hiến dâng cuộc sống vì vợ để nhờ đó, người vợ mỗi ngày nên xinh hơn, tốt hơn và đẹp hơn thay vì sử dụng vợ như một công cụ cho những đam mê xác thịt và những thói xấu của mình.

Đời sống Kitô giáo mang dấu ấn của tình yêu “hôn nhân” giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích Thánh tẩy, cửa ngõ dẫn vào Dân Thiên Chúa, cũng đã là một mầu nhiệm “hôn nhân”: có thể nói đó là nghi thức thanh tẩy (x. Ep 5,26-27) trước khi bước vào tiệc cưới là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Kitô giáo trở thành dấu chỉ giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội là một bí tích thực sự của Giao ước Mới, vì nó biểu thị giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh, và thông ban ân sủng cho họ[9]”.

Giải thích của cha xứ:
Bí tích do Chúa Giêsu thiết lập, là dấu bề ngoài chỉ và ban ơn thiêng liêng bên trong. Người cử hành bí tích là chính Chúa Kitô qua tay thừa tác viên hợp khác của Giáo Hội.

Ví dụ: Nước có tác dụng tẩy rửa. Với nghi thức dùng nước tự nhiên đổ trên đầu người chịu Thánh Tẩy cùng với lời đọc, nước này mang lại hiệu năng thiêng liêng là tẩy rửa tội lỗi bên trong tâm hồn con người và làm cho con người trở nên con Thiên Chúa. Hay việc xức dầu trong Kinh Thánh được thực hiện nơi các vua, tư tế và thỉnh thoảng dành cho các tiên tri. Việc xức dầu trong Bí Tích Thêm Sức ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần hay nói cách khác, người lãnh Bí Tích Thêm Sức được xức dầu Thánh Thần để nên chứng nhân cho Chúa trong một giai đoạn mới với một tinh thần mới.

Như vậy, ta có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay trong vườn địa đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích.

Giải thích của cha xứ:
Thiên Chúa nhận ra “con người ở một mình không tốt” và đã thực hiện kế hoạch để giải thoát con người khỏi cảnh cô đơn bằng việc dựng nên và mang đến cho anh ta một trợ tá tương xưng. Nói cách dí dỏm Thiên Chúa như ông mai bà mối tìm vợ cho Adam để làm cho họ hạnh phúc và sinh sôi nảy nở đầy mặt đất. Chúa Giêsu nâng lên hàng bí tích – thể hiện tình thương của Thiên Chúa với con người và hạnh phúc của họ – nghĩa là làm cho việc cử hành hôn phối của họ thành cơ hội của ân sủng của Thiên Chúa đến với gia đình.

Qua bí tích hôn phối, tình yêu của hai vợ chồng được Thiên Chúa đóng ấn; họ nhận được những ơn siêu nhiên giúp họ sống ơn gọi hôn nhân và gia đình, và trở nên dấu chỉ mầu nhiệm Đức Kitô kết hiệp với Hội Thánh.

2. Đặc tính của hôn nhân Công giáo
Tình yêu giữa hai vợ chồng Công giáo có ý nghĩa rất phong phú và sâu sắc, vì bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và rập theo khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Tình yêu đó có hai đặc tính là đơn nhất và bất khả phân ly.

2.1. Đơn nhất
Đơn nhất nghĩa là một vợ một chồng. “Tự bản chất, tình yêu vợ chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly. “Họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt” (x. Mt 19,6; St 2,24). Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông với nhau qua việc mỗi ngày trung thành sống lời cam kết hôn nhân, là trao hiến trọn vẹn cho nhau. Sự hiệp thông này được củng cố, thanh luyện và hoàn thiện nhờ bí tích Hôn phối đem lại sự hiệp thông trong Đức Kitô. Sự hiệp thông này càng thâm sâu hơn nhờ cùng chia sẻ một đức tin và cùng đón nhận Mình Thánh Chúa[10].”

Giải thích của cha xứ:
Hôn nhân chỉ là khởi đầu của hiệp thông nên một với người phối ngẫu của mình. Nó là một hành trình dài và chỉ chấm dứt khi chúng ta giã từ cuộc đời. Hành trình này khó khăn và nhiều khi lạc lối. Thế giới và ngay trên quê hương Việt Nam đang chứng kiến tình trạng hôn ước bị đổ vỡ ngày càng nhiều. Cám ơn Chúa, trong làn sóng tàn phá này, hôn nhân Kitô giáo vẫn dường như giữa được sự hiệp thông bền chặt này. Đó là cố gắng bản thân của mỗi người nhưng trên trước hết, chúng ta cần sự trợ giúp của ơn Chúa qua Lời Chúa và các Bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể.

“Phải nhìn nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương thân tương ái trọn vẹn, để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính đơn nhất của hôn nhân đã được Đức Kitô xác nhận. Đa thê là đi ngược với tình yêu vợ chồng, cũng như với sự bình đẳng giữa hai vợ chồng[11].”

2.2. Bất khả phân ly
Bất khả phân ly nghĩa là không thể ly dị. “Lý do sâu xa nhất đòi hỏi hai vợ chồng phải chung thủy chính là sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước, và sự trung tín của Đức Kitô với Hội Thánh. Nhờ bí tích Hôn phối, hai vợ chồng được ban ơn để diễn tả và làm chứng cho sự trung tín ấy. Do bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân tiếp nhận một ý nghĩa mới và sâu xa hơn[12].”

Giải thích của cha xứ:
Lý do biện minh cho tính bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân biểu lộ và chứng nhận cho tình yêu thần linh. Chính qua việc trung tín với nhau trong đời sống vợ chồng, đặc biệt trong xã hội hiện tại, đôi bạn làm cho Chúa được nhận biết vinh danh. Nơi điều này, người ta nhận ra anh em là môn đệ của thầy là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.

Ngoài ra sự liên kết mật thiết giữa hai vợ chồng, cũng như lợi ích của con cái, buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín với nhau[13].

Giải thích của cha xứ:
Ý nghĩa nhân bản của tính bất khả phân ly trong hôn nhân KITÔ GIÁO. Bao nhiêu trẻ em bất hạnh, làm mồi ngon cho những bọn con buôn vô lương tâm; bao trẻ em bị ném ra bên lễ xã hội; bao trẻ em bị thiệt thòi và ảnh hượng xấu từ sự chia ly của bố mẹ chúng. Có người lập luận rằng “thà mất hai người để được bốn người”. Nhưng ai dám bảo đảm rằng họ sẽ hạnh phúc trong hôn nhân mới. Theo thống kê xã hội học, số người đã ly hôn nhiều hơn hai lần nằm trong nhóm những người ly dị. Hơn nữa, nếu là bạn, trong tư cách của một người con, bạn có muốn cha mẹ ly dị không? Vâng, hãy làm mọi sự vì người khác, nhất là con mình, thay vì chỉ biết nghĩ cho riêng mình.

Chung thuỷ suốt đời với người phối ngẫu là một trong những đặc điểm nổi bật của hôn nhân Công giáo, đồng thời còn có ý nghĩa đặc biệt hơn đối với thế giới hiện nay, khi mà ly dị thường được coi là giải pháp bình thường cho những khó khăn hoặc thất bại trong đời sống hôn nhân. Quả thực, đối với nhiều trường hợp, chung thuỷ là một thách đố lớn lao và phải cậy dựa vào ơn Chúa, vì chỉ nhờ sức riêng của mình mà thôi thì không đủ. Trong đời sống hôn nhân, đôi vợ chồng cần nhớ rằng sự liên kết với nhau không phải chỉ do quyết tâm của họ mà còn là kết quả của ơn Chúa. “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly”(Mt 19,6). Hội Thánh không ngừng cầu nguyện cho các đôi vợ chồng được trung thành với nhau suốt đời. Ngược lại, chính Hội Thánh cũng được nâng đỡ luôn trung tín với Chúa Giêsu nhờ sự chung thuỷ của các đôi vợ chồng.

Giải thích của cha xứ:
Sự trung tín của đôi bạn có tính Giáo Hội. Nó làm cho Giáo Hội mạnh hơn bởi gia đình là Hội Thánh tại gia. Việc trung tín của đôi bạn còn góp sức với Hội Thánh trong việc loan báo và sống những giá trị của Tin Mừng tình yêu. Trung tín với hôn nhân là xây dựng Hội Thánh.

3. Hiệu quả bí tích Hôn phối
“Do hôn nhân hợp pháp, giữa vợ chồng phát sinh một mối dây ràng buộc vĩnh viễn và độc nhất tự bản chất. Hơn thế nữa, trong Kitô giáo, vợ chồng được Thiên Chúa tăng sức và thánh hiến bằng một bí tích riêng biệt, để chu toàn những bổn phận và sống xứng đáng bậc sống của mình[14]”.

Giải thích của cha xứ:
Hôn nhân hợp pháp nghĩa là nó không bị mắc bất cứ ngăn trở nào theo luật định và hội đủ tất cả những điều kiện liên quan đến tính thành sự của bí tích. Tôi lấy ví dụ, hôn nhân của các bạn sẽ không thành bí tích khi một linh mục không có năng quyền hợp pháp (bị treo chén hay không thuộc giáo xứ của ngài…) chứng hôn cho các bạn.

Bí tích Hôn phối đem lại hai hiệu quả:
3.1. Dây hôn phối
“Sự ưng thuận tự do, qua đó đôi phối ngẫu tự trao hiến và tiếp nhận nhau, được chính Thiên Chúa đóng ấn. Từ hôn ước của họ phát sinh một định chế. Định chế này đã được chính Thiên Chúa ấn định và có giá trị trước mặt xã hội. Hôn ước được liên kết với giao ước Thiên Chúa ký kết với nhân loại: Tình yêu vợ chồng đích thực được hoà nhập trong tình yêu Thiên Chúa[15].”

“Dây hôn phối do chính Thiên Chúa liên kết, nên hôn nhân thành sự và hoàn hợp, giữa hai người đã được rửa tội, không bao giờ được tháo gỡ. Dây liên kết này là kết quả của việc hai người tự nguyện kết hôn và do sự hoàn hợp của hôn phối. Đây là một thực tại không thể đảo ngược, và trở thành một giao ước được Thiên Chúa trung tín bảo đảm. Hội Thánh không có quyền nói ngược lại sự an bài khôn ngoan của Thiên Chúa[16].”

Giải thích của cha xứ:
Thành sự nghĩa là hôn phối cử hành cách hợp luật và hợp pháp. Hôn nhân không bị vướng mất cứ ngăn trở nào. Hôn nhân này là một bí tích.

Hoàn hợp nhằm diễn tả tình trạng sau hôn nhân. Một khi đôi hôn phối đã qua đêm với nhau sẽ được coi như hôn nhân ấy đã hoàn hợp trừ khi có những bằng chứng ngược lại (có thể từ y khoa trong việc kiểm tra trinh tiết). Vì là sau hôn nhân nên những quan hệ tính dục trước hôn nhân giữa hai người không được tính như sự hoàn hợp. Tôi lấy ví dụ: một chú rể sau khi làm lễ cưới tại nhà thờ trở về, anh ta bị bắt vì một lý do gì đó khiến họ phải xa nhau không thời hạn. Trong trường hợp này, hôn nhân có thể được tháo gỡ khi người nữ đệ đơn lên cấp có thẩm quyền với lý do “hôn nhân này thành sự nhưng chưa  hoàn hợp”.

3.2. Ân sủng của bí tích Hôn phối
Ân sủng đặc biệt của bí tích Hôn phối kiện toàn tình yêu vợ chồng, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ. “Nhờ ân sủng này, họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái[17]”.

“Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng đặc biệt này. Như xưa, Thiên Chúa đến gặp Dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành, thì ngày nay, Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Hội Thánh cũng đến với đôi vợ chồng qua bí tích Hôn phối. Ngài ở lại với họ, ban cho họ sức mạnh để họ vác thập giá theo Ngài, để họ chỗi dậy mỗi khi sa ngã, để họ tha thứ cho nhau, mang gánh nặng cho nhau, “phục tùng nhau trong sự kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21), và yêu thương nhau với một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và phong phú. Trong khi họ vui hưởng tình yêu và cuộc sống gia đình, Ngài ban cho họ, ngay từ đời này, được nếm trước hạnh phúc Nước Trời[18]”.

Giải thích của cha xứ:
Ơn gọi nên thánh không chỉ dành cho các giám mục, linh mục, tu sĩ nhưng là ơn gọi chung và nền tảng của đời sống Kitô hữu. Ơn gọi này mỗi chúng ta lãnh nhận trong Bí Tích Thánh Tẩy bởi trong Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được gọi và thực sự là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, đây chỉ là giai đoạn đầu mà cha mẹ, người đỡ đầu, người thân phải giúp đỡ để mầm sống Con Thiên Chúa lớn dần lên qua từng ngày.

Nên Thánh trong đời hôn nhân nghĩa là qua việc chu toàn cuộc sống hôn nhân gia đình như lòng Chúa và Giáo Hội mong ước, chúng ta cũng trở nên những vị thánh. Cách đây không lâu cha mẹ của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng đã được Giáo Hội tôn phong vì cuộc sống của họ trong tư cách là những người cha người mẹ. Thánh Nữ Mônica cũng là một ví dụ cho chúng ta.

GHI NHỚ :
1. H. Hôn nhân Công giáo là gì?
T. Hôn nhân Công giáo là bí tích Chúa Giêsu đã lập, để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ, thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh, cùng ban ơn giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của mình.
2. H. Hôn nhân Công giáo có những đặc tính nào?
T. Hôn nhân Công giáo có hai đặc tính này:
- Một là đơn nhất, nghĩa là một vợ một chồng.
- Hai là bất khả phân ly, nghĩa là trung thành yêu thương nhau trọn đời.
3. H. Bí tích Hôn phối ban cho vợ chồng những ơn nào?
T. Bí tích Hôn phối ban ơn giúp các đôi vợ chồng yêu thương nhau, như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, kiện toàn tình yêu tự nhiên, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly và thánh hoá họ trong đời sống siêu nhiên.

GỢI Ý SUY NGHĨ :
1. Khi nhìn vào tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh, anh chị học được điều gì cho tình yêu của anh chị?
2. Trung thành với nhau đến chết phải chăng là một thách đố?
3. Ân sủng bí tích Hôn phối mang lại điều gì cho đời sống hôn nhân?

CẦU NGUYỆN :
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương Hội Thánh đến độ đã hiến mình vì Hội Thánh để Hội Thánh được xinh đẹp lộng lẫy, thánh thiện tinh tuyền. Chúng con đang đứng trước ngưỡng cửa ơn gọi hôn nhân và gia đình, xin cho chúng con biết đến với Chúa, lắng nghe Lời Chúa, nhìn ngắm mẫu gương của Chúa, để học biết yêu thương như Chúa. Xin đổ Thánh Thần Tình yêu của Chúa xuống trên chúng con để chúng con có đủ can đảm bước theo con đường Chúa đang mời gọi chúng con. Amen.



[1] x. Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31; Ed 16; 23
[2] x. Ep 5, 22-33
[3] x. Mc 2,19
[4] x. Ep 5, 25
[5] GLHT 1613
[6] GLHT 1614
[7] GLHT 1615
[8] GLHT 1616
[9] GLHT 1617
[10] GLHT 1644
[11] GLHT 1645; x. MV 49,2; GĐ 19
[12] GLHT 1647
[13] x. GLHT 1646; MV 48,1
[14] GLHT 1638; x. GL 1134
[15] GLHT 1639
[16] GLHT 1640; x. GL 1141
[17] x. GH 11
[18] x. GLHT 1642




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét