GIÁO LÝ
HÔN NHÂN
Giáo xứ Thánh Linh
Bài 1. Ơn gọi hôn nhân
Sách Sáng thế kể lại: Sau khi đã dựng nên Ađam, Thiên Chúa
phán: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng
với nó”. Khi thấy Evà, Ađam đã sung sướng kêu lên: “Này là xương bởi xương tôi,
thịt bởi thịt tôi!” (x. St 2,18-23).
Hôn nhân trước hết là một ơn gọi. Qua việc phối hợp trong
tình yêu, hai vợ chồng được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa
(x. St 1,26-28), một Thiên Chúa yêu thương và luôn trung tín (x. Hs 2,21).
Tình yêu và sự trung tín của Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn
nơi Đức Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại.
Chúa Giêsu chỉ sống trên trần gian ba mươi ba năm, nhưng đã
dành ba mươi năm sống trong gia đình Nadarét. Điều đó cho thấy hôn nhân và gia
đình có một tầm mức quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nơi
Chúa Giêsu, các đôi vợ chồng nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã khởi xướng, cũng như
luôn đồng hành và làm cho hôn nhân và gia đình trở thành con đường hạnh phúc, dẫn
con người đến sự hiệp thông với nhau và hiệp thông với Thiên Chúa tình yêu.
Bài 1
Ơn gọi hôn nhân trong
chương trình của Thiên Chúa
Từ ban đầu Tạo Hoá đã dựng nên con
người có nam có nữ và Ngài đã phán: “Vì thế, người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp
với vợ mình, và cả hai sẽ nên một huyết nhục” (Mt 19,4-5).
Có thể nói, hôn nhân và gia đình là một trong những thể chế cổ
xưa nhất của loài người. Hôn nhân đã được Kinh Thánh đề cập đến ngay từ những
trang đầu [1], và rồi hình ảnh hôn nhân lại được Kinh Thánh nhắc đến nơi những
trang cuối [2]. Điều đó cho thấy, hôn nhân không phải chỉ là một định chế thuần
tuý của con người, mà trước hết còn nằm trong chương trình của Thiên Chúa, khi
Ngài dựng nên con người có nam có nữ, và mời gọi họ: “Hãy sinh sôi nảy nở cho
nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó” (St 1,28).
1. Hôn nhân là gì?
Hôn nhân là một giao ước
ký kết giữa một người nam và một người nữ, với ý thức tự do và trách nhiệm, để
sống yêu thương và giúp đỡ nhau trong tình nghĩa vợ chồng; để sinh sản và giáo
dục con cái trong nhiệm vụ làm cha làm mẹ [3].
Giải
thích của cha xứ:
Giao
ước là một nghi thức công
khai long trọng được ký kết giũa một bên với một bên khác và thường được chứng
kiến trước những đại diện hợp pháp của tôn giáo hay chính quyền. Trong hôn nhân
Công Giáo, hai người ký kết giao ước trươc mắt Thiên Chúa, Hội Thánh qua tác
viên chức thánh hợp pháp.
Giữa
một người nam và một người nữ: tuy
rằng ngày nay, một số quốc gia đã hợp pháp hôn nhân đồng tính, nhưng nhìn
chung, hôn nhân vẫn được đa số nhìn nhân là giao ước giữa một người nam và một
người nữ. Kitô giáo không loại trừ người đồng tính nhưng không nhìn nhân hôn
nhân đồng tính.
Sự tự
do bao hàm cả bên trong và bên ngoài của hai bên ký giao ước. Thiếu sự tự
do này, giao ước mà họ ký kết mất đi tính hiệu năng của no. Ví dụ bị ép buộc từ
một chủ thể có thể là người phối ngẫu hoặc một chủ thể nào đó.
Trách
nhiệm nhằm
nhấn mạnh đến ý thức vai trò của mỗi bên trong đời sống hôn nhân gia đình. Hôn
nhân sẽ vô hiệu khi các bên không hiểu biết và không có khả năng để thực hiện
trách nhiêm của hôn nhân. Ví dụ, người ký giao ước hôn nhân không biết những
đòi hỏi của đời sống hôn nhân gia đình.
Để sống yêu thương và giúp đỡ nhau trong
tình nghĩa vợ chồng, sinh sản và giáo dục con cái là hai mục đích chính của hôn nhân.
2. Nguồn gốc của hôn nhân
Nguồn gốc của hôn nhân chính
là Thiên Chúa. Sách Sáng thế kể lại rằng ngày thứ sáu, sau khi đã tạo dựng nên
trời đất, cây cối và muôn loài muôn vật, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng
nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời,
dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất”. Vậy Thiên
Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh mình. Thiên Chúa tạo thành con người
giống hình ảnh Thiên Chúa. Ngài tạo
thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa
chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh
sôi nảy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời
và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất” (St 1,26-28).
Giải
thích của cha xứ:
Thiên Chúa không là nam hay nữ. Việc dựng
nên con người có nam có nữ nhằm để
giúp cho con người bổ túc lẫn nhau và làm cho nhau nên phong phú bởi tình yêu.
Chính tình yêu đích thực làm nảy sinh hoa trái là con cái cũng như sáng tạo, cứu
độ và thánh hóa là kết quả của Thiên Chúa tình yêu.
Sự thống
trị ở đây hàm ý một đại diện cho Thiên Chúa để canh giữ, bảo vệ và phát triển
đất đai tới ngày viên mãn của no. Con người vì thế không là chủ nhưng người quản
lý của Thiên Chúa; vũ trụ thiên nhiên được giao cho con người không để thống
tri nhưng để phục vụ và yêu thương chúng trong tư cách là những thọ tạo của
Thiên Chúa.
Ngoài ra, sách Sáng thế còn
nói một cách cụ thể hơn về việc kết hiệp vợ chồng: “Thiên Chúa lấy bùn đất nắn
thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống.
Thiên Chúa phán: “Đàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội
trợ giống như nó”. Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ,
Ngài lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc
xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền
nói: “Bây giờ xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi
là người nữ, vì bởi người nam mà ra”. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà
kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể (St 2,7.18.21-24).
Cả hai câu chuyện trên đều
cho thấy hôn nhân đã xuất hiện ngay từ khởi đầu công trình sáng tạo và do ý muốn
của TC. Khi tạo dựng, Ngai đã không dựng nên con người cô độc, hoặc chỉ là nam,
hoặc chỉ là nữ, nhưng đã dựng nên con người có nam, có nữ và đã tác hợp họ nên
vợ chồng, thành “một xương một thịt”. Nguồn
gốc của hôn nhân chính là Thiên Chúa. Ngài là Đấng tác tạo hôn nhân và đã
khắc ghi ơn gọi hôn nhân vào trong bản tính của con người khi tạo dựng nên họ
có nam có nữ [4].
Giải
thích của cha xứ:
Eva, người được Thiên
Chúa dựng nên từ chiếc sương xườn của Adam đã giúp Adam thoát khỏi tình trạng
cô đơn chán chường. Adam nhận ra Eva là một mình khác của anh ấy, một người có
khả năng chia sẻ đồng hành với anh trong cuộc sống vừa giúp anh sống trong hạnh
phúc. Và hôn nhân đầu tiên được thành hình bởi ý muốn của Thiên Chúa khi Thiên
Chúa chọn cho Adam một “trợ tá” tương xứng và hành động lìa bỏ của con người để
gắn bó và nên một với nhau.
Sách Talmud chú giải chiếc
xương sườn còn là biểu tượng của sự bình đẳng nam nữ trong hôn nhân khi diễn tả
rằng Thiên Chúa không dựng nên người đàn bà từ chiếc xương chân của người đàn
ông bởi nếu thế, người đàn ông sẽ coi và đối xử với người đàn bà như kẻ dưới quyền
anh ấy. Nhưng Thiên Chúa cũng không dựng nên người đàn bà từ chiếc xương đầu của
người đàn ông, bởi nếu thế, chị sẽ coi anh ấy như nô lệ của mình. Chiếc xương
sườn nằm ở trung tâm và cạnh trái tim của người đàn ông để diễn tả tính bình đẳng
giữa nam và nữ, vợ và chồng. Sự bình đẳng ở đây rõ ràng không phải là sự hoán
chuyển cho nhau nhưng đúng hơn, là mỗi người, trong tư cách là nam hay nữ hoàn
thành vai trò của họ trong ý định của Thiên Chúa.
3. Tình yêu là yếu tố căn bản của hôn nhân
Thiên Chúa là Tình Yêu [5], Đấng duy
nhất nhưng không đơn độc. Nơi bản thân, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông và
yêu thương giữa Ba Ngôi Vị: Cha, Con và Thánh Thần. Vì yêu thương mà dựng nên
con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa cũng mời gọi họ sống yêu thương và hiệp
thông.
Giải
thích của cha xứ:
Tình yêu nơi Thiên Chúa Ba Ngôi là một điệu
nhảy tình yêu bất tận. Cha, Con và Thánh Thần dìu nhau trong vũ điệu tình yêu.
Một tình yêu hỗ tương với nhau và cho nhau. Tình yêu ấy làm cho Cha, Con và
Thánh Thân vừa nên một với nhau vùa duy trì được những gì riêng của mỗi ngôi vị.
Tình yêu Ba Ngôi không khép kín, không no thỏa trong chính mình (ích kỷ) nhưng
mở ra đến vô tận, mở ra để trao dâng và đón nhận. Chính trong tình yêu thần
linh này, con người và thế giới được tạo thành. Con người không chỉ được tạo
thành bởi tình yêu mà còn cho tình yêu. Chính tình yêu làm cho con người hạnh
phúc, được sống và sống dồi dào như Thiên Chúa.
Khi sống yêu thương, con người
thể hiện đúng với bản chất của mình là hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để sống
yêu thương và hiệp thông với nhau. Tình yêu là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của
con người [6].
Giải
thích của cha xứ:
Con người và công trình tạo thành không
là kết quả của tình cờ hay tất yếu, nhưng đến từ tình yêu để sống trong tình
yêu và cuối cùng trở về với tình yêu là chính Thiên Chúa. Tình yêu này là khuôn
mẫu cho mọi tình yêu nhân loại, đặc biệt tình yêu Kitô giáo. Giáo Hội gọi gia
đình là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi theo nghĩa gia đình là cộng đồng tình
yêu – nơi các thành viên khác biệt liên kết với nhau thành một trong tình yêu
nhưng vẫn tôn trọng những khác biệt của nhau.
Tình yêu cũng là yếu tố căn bản
của hôn nhân. Sự trao tặng thân xác giữa hai vợ chồng chỉ có ý nghĩa khi thể hiện
sự tự hiến chính mình vì tình yêu. Tình yêu là nền móng xây dựng những mối
tương quan gia đình. Đối với con cái, tình yêu của cha mẹ trở thành dấu chỉ
tình yêu của Thiên Chúa. Sứ mạng của đời sống gia đình là bảo toàn, biểu lộ và
truyền đạt tình yêu. Hôn nhân và gia đình được thiết lập là do tình yêu, được
sinh động cũng là do tình yêu, sức mạnh và mục đích cuối cùng lại chính là tình
yêu [7].
Giải
thích của cha xứ:
Hành vi vợ chồng không thể bị giản lược
như một giải quyết nhu cầu sinh lý, một hành động theo bản năng tính dục nhưng
trong đời sống hôn nhân, hành vi vợ chồng phải là một hành vi vợ chồng trao hiến
cho nhau trong tình yêu. Vì là hành vi của tình yêu, nó không thể có chỗ cho sự
sợ hãi hay cẩu thả. Nó phải là một sự mở ra cho người kia và mở ra cho ân huệ của
sự sống. Chính vì thế, hành vi vợ chồng đúng nghĩa là một hành vi thánh thiêng
nơi Thiên Chúa hiện diện bởi vì nơi đâu có tình yêu đích thức, nơi đó có Thiên
Chúa hiện diện.
4. Mục đích của hôn nhân
Tự bản chất, hôn nhân hướng đến
hai mục đích: Lợi ích của đôi vợ chồng và lưu truyền nòi giống (sinh sản và
giáo dục con cái) [8]. Hai mục đích này luôn đi đôi với nhau, mặc dù có những
lúc mục đích này được nhấn mạnh hơn mục đích kia.
4.1. Trọn đời yêu thương và bổ
túc cho nhau
Nhờ khế ước hôn nhân, người
nam và người nữ “không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19,6;
x. St 2,24), và được mời gọi mỗi ngày một trở nên gắn bó với nhau hơn qua việc
nỗ lực sống cam kết trao hiến trọn vẹn cho nhau.
Giải thích
của cha xứ:
Các bạn chú ý tới động từ “trở nên” nghĩa
là một tình trạng đang trên đường hoàn thành. Hôn nhân chỉ là khởi đầu cho hành
trình nên một và “sự nên một này” phải là một cố gắng không bao giờ dừng lại
trong cả hai người phối ngẫu. Hay nói cách khác, nên một chỉ là hạt giống nảy mầm
trong ngày thành hôn và nó trổ sinh hoa trái hay không tùy thuộc vào cố gắng của
các bạn. Do đó, những tuyên bố không hợp nhau sau khi cưới như một lý do chia
tay chỉ là một sự ngụy biện bởi sự hòa hợp phải đến từ cố gáng mỗi ngày của đôi
bạn.
Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ
sâu từ sự thu hút tự nhiên về giới tính, cũng như từ sự bổ túc lẫn nhau giữa
nam và nữ, được nuôi dưỡng nhờ những nỗ lực của đôi bạn muốn chia sẻ cho nhau
trọn cả bản thân trong suốt cuộc đời.
Giải
thích của cha xứ:
Các bạn có thể nghiên cứu thêm sự khác biệt
để bổ túc cho nhau giữa người nam và nữ dựa trên những định luật về sự khác biệt
nam nữ. Tôi tin rằng chính các bạn cũng trải nghiệm những khác biệt mang tính bổ
túc cho nhau giữa nam và nữ. Hôn nhân là cơ hội tốt nhất để người nam và nữ
giúp đỡ nhau hoàn thành sứ mang trong tư cách là nam là nữ trong ý định của
Thiên Chúa.
4.2. Sinh sản và giáo dục con
cái
Tự bản chất, hôn nhân hướng đến
việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn thành hôn nhân.
Con cái là ân huệ cao quý nhất
của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Tình yêu
vợ chồng còn phong phú nhờ những hoa quả của đời sống luân lý, tinh thần và
siêu nhiên được cha mẹ truyền lại cho con cái qua việc giáo dục. Theo nghĩa
này, mục tiêu nền tảng của hôn nhân và gia đình là phục vụ cho sự sống và hạnh
phúc [9].
Giải
thích của cha xứ:
Bao nhiêu hôn nhân đã gãy đổ vì không có
con cái nối dòng; bao cặp vợ chồng ngày đêm mong mỏi một mụn con mà không có; và
mỗi năm trên thế giới, người ta tốn biết bao nhiêu tiền của để mong có một người
con bằng những phương tiện qua khoa học (thụ tinh nhân tạo). Hôn nhân không chỉ
thỏa mãn khát vọng được ở bên nhau trong chốc lát nhưng là mãi mãi của cặp đôi.
Cũng thế, họ ở bên nhau không chỉ để giúp nhau hoan thành cuộc sống vật chất,
mà còn hơn thế nữa, họ còn muốn tình yêu của họ hiện hữu trong một cách thức mới
lạ hơn, cụ thể hơn, sống động hơn và dĩ nhiên lâu dài hơn. Con cái sẽ giúp họ đạt
được điều nguyện ước này. Con cái, trong một nghĩa nào đó, giúp cha mẹ hoàn
thành những dự định mà họ chưa thể hoàn thành trong cuộc đời (một vài người tu
xuất đã thỏa mãn khi con họ thành linh mục, tu sĩ – những mơ ước họ chưa thực
hiện được).
Người Việt Nam chúng ta nói: “Cha mẹ sinh
ra tôi, nhưng Thiên Chúa dựng nên tôi”. Sự sống là một huyền nhiệm – đó là lời
tuyên xưng đức tin của những nhà khoa học khi quan sát, nghiên cứu sự hình
thành và phát triển của thai nhi từ lúc thụ thai cho đến khi chào đời. Sự sống
vẫn nằm vượt tầm với của con người trong ý nghĩa tròn đầy nhất của hạn từ này.
5. Hạnh phúc đời hôn nhân
Hôn nhân bao giờ cũng đi đôi
với ước vọng trăm năm hạnh phúc. Đối với người Công giáo, hạnh phúc thật là được
sống trong tình thân mật với Thiên Chúa Tạo Hóa là Cha yêu thương chúng ta. Có
Thiên Chúa, dù thiếu mọi sự, cũng vẫn hạnh phúc. Còn vắng bóng Ngài, dù có mọi
sự, cũng chỉ là bất hạnh. Đối với người Công giáo, khi đôi bạn thực hiện hôn
nhân và gia đình theo ý định của Thiên Chúa, thì hôn nhân chính là một con đường
dẫn đến Thiên Chúa, cũng như dẫn đến hạnh phúc.
Giải
thích của cha xứ:
Hôn nhân chỉ hạnh phúc THẬT khi đôi bạn sống
trong tình yêu; TÌNH YÊU VỚI CHÚA, VỚI NHAU VÀ VỚI NGƯỜI KHÁC. Tôi muốn nhấn mạnh
đến hạnh phúc thật – hạnh phúc vượt lên trên
Mục đích của Thiên Chúa khi tạo
dựng, đó là làm cho con người được yêu thương và hiệp nhất với Ngài trong hạnh
phúc đời đời. Đồng thời, mọi sự Thiên Chúa ban cho ở đời này đều nhằm giúp con
người đạt tới mục đích cuối cùng ấy. Khi đã nhận biết điều đó, trong mọi sự, ta
luôn dành ưu tiên cho Thiên Chúa để được hiệp nhất với Ngài. Hễ điều gì giúp ta
đến gần Ngài, thì ta đón nhận, bằng không ta phải dứt bỏ ngay [10].
GHI NHỚ:
1. H. Hôn nhân là gì?
T.
Hôn nhân là giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ, với đầy đủ tự
do ưng thuận và ý thức trách nhiệm, để trở thành vợ chồng.
2. H. Ai đã lập nên hôn nhân?
T.
Chính Thiên Chúa đã lập nên hôn nhân khi dựng nên loài người có nam có nữ, và mời
gọi họ sống yêu thương.
3. H. Yếu tố căn bản của hôn nhân là gì?
T. Yếu
tố căn bản của hôn nhân chính là tình yêu vì Hôn nhân được thiết lập do tình
yêu và mục đích cuối cùng của Hôn nhân cũng chính là tình yêu.
4. H. Hôn nhân có những mục đích nào?
T.
Hôn nhân có hai mục đích này:
- Một là yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau.
- Hai là cộng tác với Thiên Chúa trong việc
sinh sản và giáo dục con cái.
GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Tình yêu có gì khác với sự
thu hút giữa nam và nữ?
2. Tình yêu cần thiết cho hôn
nhân như thế nào?
3. Có thể lấy một người đồng
thời lại yêu một người khác được không? Tại sao?
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ
Chúa vì đã cho chúng con sinh ra làm người nam, người nữ, mang hình ảnh của
Chúa. Chúa còn ban tặng cho từng người chúng con một trái tim muốn yêu và khao
khát được yêu để chúng con có thể yêu Chúa và yêu nhau.
Xin dạy chúng con biết yêu
thương như Chúa đã yêu thương chúng con để chúng con ngày càng trở nên giống
hình ảnh Chúa là Tình yêu. Amen.
________________________________
[1] x. St 1,27-28; 2,18-25
[2] x. Kh 21,2.9.17
[3] x. GLHT 1601
[4] x. GLHT 1603
[5] x. 1Ga 4, 8.16
[6] x. GLHT 1604
[7] x. GĐ 18
[8] x. GLHT 1601; x. GL 1055
§1
[9] x. GLHT 1652-1653
[10] x. GLHT 226
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét