Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 4

Giáo xứ Thánh Linh

Bài 4. Hôn nhân khác tôn giáo

Nếu anh em nào có vợ ngoại mà người đó thuận ở với mình, thì chớ rẫy vợ. Và người vợ nào có chồng ngoại mà người đó thuận ở với mình, thì đừng bỏ chồng. Vì chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo (1 Cr 7,12-14).

Thế giới ngày nay được đánh dấu bằng những mối giao lưu nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhất là trong lãnh vực truyền thông đại chúng. Con số những cuộc hôn nhân giữa những người khác đạo càng ngày càng gia tăng. Đây là một trong những ưu tư đặc biệt của Hội Thánh Công giáo đối với đời sống hôn nhân và gia đình của con cái mình, vì những cuộc hôn nhân này thường gặp nhiều khó khăn do những khác biệt về niềm tin.

1. Thế nào là hôn nhân khác tôn giáo?
Hôn nhân khác tôn giáo là hôn nhân giữa một bên là Công giáo và một bên không phải là Công giáo.

- Nếu bên không Công giáo, nhưng đã được rửa tội trong Hội Thánh Tin Lành hay Chính Thống, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị tín hay hôn nhân hỗn hợp.

- Nếu bên không Công giáo chưa được rửa tội, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị giáo hay hôn nhân khác đạo. Ví dụ hôn nhân giữa một người Công giáo và một người Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo v.v... kể cả trường hợp một người không theo tôn giáo nào.

Cha xứ giải thích:
Kitô giáo gồm tất cả những người TIN VÀO ĐỨC KITÔ – niềm tin được biểu lộ qua bí tích thánh tẩy, bí tích của đức tin. Như thế, Kitô giáo gồm Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo và Thệ Phản (Tin Lành là một trong những phái của Thệ Phản). Hôn nhân, do đó, giữa người Công giáo với những Kitô hữu ngoài Công giáo gọi là hôn nhân dị tín hay hỗn hợp. Hôn nhân của một người Công giáo với người ngoài Kitô giáo là hôn nhân dị giáo hay khác đạo.

2. Hậu quả của những cuộc hôn nhân khác tôn giáo
Sau đây là 2 trường hợp có thể xảy ra:

2.1. Hôn nhân sẽ hạnh phúc, nếu hai bên biết tôn trọng nhau, “đạo ai người ấy giữ”. Phía không Công giáo thực sự để cho bạn mình được tự do thờ phượng và chăm sóc đức tin cho con cái như đã thoả thuận lúc ban đầu. Phía Công giáo sống thật tốt và giúp phía không Công giáo nhận được ơn Chúa.

2.2. Hôn nhân có thể gặp nguy hiểm và tan vỡ, nếu hai bên không chịu nhân nhượng nhau trước những mối bất đồng do sự khác biệt về niềm tin tạo ra. Phía Công giáo có thể trở nên nguội lạnh và đi đến chỗ bỏ đạo.

Cha xứ giải thích:
Thái độ đúng mực là sự HỢP TÁC, TÔN TRỌNG TRONG ĐỐI THOẠI VÀ CÙNG NHAU LỚN LÊN TRONG NIỀM TIN RIÊNG CỦA MÌNH. Không thể có đối thoại đúng nghĩa mà thiếu sự tôn trọng niềm tin của người khác hoặc buộc người khác phải từ bỏ niềm tin của họ để theo niềm tin của chúng ta.

3. Giáo luật về Hôn nhân khác đạo
Tại Việt Nam, ngày nay vẫn có nhiều vị hữu trách và cha mẹ tỏ thái độ quá dè dặt, khắt khe đối với con cái trong hôn nhân khác tôn giáo: “Bắt buộc trở lại đạo Công giáo mới cho phép làm đám cưới”! Một số khác lại quá dễ dãi: “Đạo ai nấy giữ, chẳng cần chuẩn chiếc gì hết”! Cả hai thái độ trên đều không phù hợp với ý muốn của Hội Thánh Công giáo. Hội Thánh có phép chuẩn cho những hôn nhân khác tôn giáo. Theo luật hiện nay của Hội Thánh:

Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép rõ ràng của giáo quyền[1].
Hôn nhân khác đạo chỉ thành sự khi có phép chuẩn rõ ràng của giáo quyền[2].

Bởi vậy, nếu ở trong trường hợp hôn nhân hỗn hợp hoặc hôn nhân khác đạo, đôi bạn cần trình bày với cha xứ để được hướng dẫn về thủ tục xin phép chuẩn nơi Đức Giám Mục Giáo phận.

Muốn được phép chuẩn:
- Hai đương sự phải hiểu biết, chấp nhận mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân theo giáo lý Công giáo.
- Bên Công giáo cam kết giữ đức tin của mình, bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo.
- Cũng cần phải cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy[3].

4. Tại sao Hội Thánh bận tâm và tỏ ra dè dặt?
Nhìn vào những quy định trên, ta thấy thái độ của Hội Thánh là một sự nhượng bộ vì không thể tránh được, chứ không hề khuyến khích. Tuy nhiên, người ta có cảm tưởng Hội Thánh Công giáo không “công bằng” khi đòi hỏi đức tin Công giáo phải được ưu tiên!

Hội Thánh lấy quyền gì để đòi hỏi hai bên phải thoả thuận như thế? Có thể nói đó là như quyền của bậc cha mẹ trước hạnh phúc của con cái, chẳng khác nào việc trao đổi giữa hai gia đình trước ngày đính hôn, mỗi bên nêu rõ nguyện vọng của mình vì hạnh phúc lâu bền của con cái.

Thế nhưng, tại sao Hội Thánh lại phải bận tâm đến như vậy? Thưa vì những lý do sau:

- Hội Thánh biết rằng, bên cạnh tình yêu, niềm tin tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng đối với đời sống hôn nhân và gia đình, bởi vì tôn giáo không chỉ ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách hành xử, mà còn ảnh hưởng đến những chọn lựa trước những vấn đề của cuộc sống, nhất là trong việc giáo dục con cái. Do khác biệt quan điểm một cách sâu xa như thế, những cuộc hôn nhân khác tôn giáo thường gặp nhiều trở ngại, khó đạt được hạnh phúc và nếu tan vỡ thì phía người Công giáo sẽ bị thiệt thòi nhiều hơn, vì họ không thể lập gia đình lại, bao lâu người kia còn sống.

Thực vậy, tục ngữ Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Để gia đình được hạnh phúc, cả hai vợ chồng cần phải nỗ lực và góp sức. Đây không phải là chuyện dễ, vì trong thực tế có khá nhiều khác biệt giữa họ: khác biệt về giới tính, về tính tình, về giáo dục, về gia đình, về lối sống v.v... Nếu cùng chung một niềm tin tôn giáo, họ sẽ có được một nền tảng vững chắc, giúp vượt qua những khó khăn và thử thách, biết dùng những khác biệt để bổ túc cho nhau và làm cho cuộc sống gia đình thêm phong phú. Lúc ấy, người bạn đời cũng là người bạn đạo, cả hai cùng mang một chí hướng, đó là xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc trong yêu thương và hiệp nhất.

- Trong hôn nhân hỗn hợp giữa một người Công giáo và một Kitô hữu thuộc hệ phái khác (Tin Lành, Chính Thống...) những khó khăn cũng không nhỏ. Những khó khăn này xuất phát từ sự chia rẽ giữa các Kitô hữu đến nay vẫn chưa giải quyết được. Đôi vợ chồng có thể cảm nghiệm được thảm kịch ấy ngay trong gia đình của mình. Tuy nhiên, những khó khăn này có thể vượt qua, nếu đôi bạn biết cố gắng kết hợp những gì tốt đẹp đã lãnh nhận nơi cộng đoàn mình và cùng nhau học hỏi, chia sẻ để giúp nhau sống trung thành với Đức Kitô.

- Trong hôn nhân khác đạo giữa một người Công giáo và một người không tin vào Đức Kitô, sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Những bất đồng quan điểm về niềm tin và hôn nhân, có thể dẫn đến những căng thẳng trong gia đình, nhất là việc giáo dục con cái[4]. Hội Thánh xác tín rằng: đức tin Kitô giáo mà con cái mình đã nhận được là một quà tặng vô giá Thiên Chúa ban. Hội Thánh không muốn đức tin ấy bị mai một, nhưng luôn có những điều kiện thuận lợi để được tồn tại và phát triển. Vì thế, Hội Thánh luôn đòi hỏi phải thoả thuận với nhau trước khi bước vào hôn nhân có phép chuẩn.

5. Những thái độ sống
5.1. Đối với nhau
Hôn nhân khác tôn giáo là một thách đố lớn với nhiều khó khăn cần vượt qua. Tuy nhiên, nếu đôi bạn đã suy nghĩ, cân nhắc kỹ lưỡng, cuối cùng vẫn không thể lìa xa nhau. Tình yêu quả là một mầu nhiệm! Đôi bạn hãy mở rộng cõi lòng đón nhận cuộc sống và tích cực cư xử tốt với nhau.

- Phía Công giáo hãy can đảm đón nhận điều Hội Thánh chờ đợi họ: Làm chứng cho Tin Mừng. Vào thời buổi khó khăn hiện nay, cuộc sống tốt lành đầy tin yêu của người bạn đời sẽ là lời chứng sống động và hùng hồn, át hẳn những gương xấu trong Hội Thánh. Ước gì tình huống của hai người trở thành dịp may cho phía không Công giáo đặt vấn đề về Thiên Chúa của người Công giáo. Ước gì chính thái độ nghiêm túc của Hội Thánh đối với những cuộc hôn nhân khác đạo khiến người trong cuộc đặt câu hỏi về tầm quan trọng của đức tin Công giáo.

- Phía Công giáo đừng quên rằng mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của bạn mình. Họ phải biết trân trọng trao vào tay bạn mình một quyển Tin Mừng hay một quyển Kinh Nguyện Gia đình và tha thiết cầu nguyện cho bạn mình mỗi ngày. Hơn nữa, còn phải học hỏi giáo lý và sống đạo cách sâu xa và triệt để hơn. Đừng quên rằng mỗi người phải cố gắng tìm hiểu những ưu điểm lòng tin của bạn mình, để thêm tôn trọng và quý mến nhau. Chỉ khi nào ta biết chân thành đón nhận ưu điểm của bạn, ta mới có thể giúp bạn mở lòng đón nhận ưu điểm của ta. Với Ơn Chúa, thái độ ấy sẽ giúp đôi bên làm phong phú cho nhau.

5.2. Với gia đình hai bên
Sự khác biệt tôn giáo không chỉ tạo khoảng cách giữa hai người mà còn tạo khoảng cách với gia đình của bạn mình, một khoảng cách vô hình nhưng đôi khi hết sức to lớn. Đây là chỗ để phía Công giáo gia tăng lòng trông cậy vào ơn Chúa.

Đã chọn lựa một cuộc hôn nhân đầy khó khăn, phía Công giáo phải luôn tin tưởng vào ơn Chúa. “Ai thực sự cậy trông Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng”. Với lòng khiêm nhường, hãy cầu nguyện, hãy sống chân thành và khi có dịp, đừng ngại chia sẻ niềm tin cho những người mình yêu mến. Cách riêng trong việc thờ cúng tổ tiên, cả hai cần học hiểu kỹ quan điểm của Hội Thánh Công giáo và chu toàn phận vụ mình trong gia tộc cách tận tuỵ.

Tóm lại, mỗi bên cần phải làm hết sức để giúp gia đình mình hiểu và quý trọng thái độ tôn giáo của bạn mình.

5.3. Với cộng đoàn giáo xứ
Khi lập gia đình với người khác đạo, phía Công giáo có thể bỗng dưng thấy mình trở nên xa cách với mọi người trong giáo xứ. Cần vượt thắng tâm trạng ấy, bởi lẽ đây chính là lúc họ cần gắn bó hơn với giáo xứ để được nâng đỡ và cầu nguyện. Hãy thắt chặt tình thân với một nhóm gia đình trong giáo xứ, luôn gần gũi nhau như những người bạn nghĩa thiết. Hãy tận dụng những cơ hội sẵn có trong tình bạn để quan hệ giữa gia đình nhỏ của mình với cộng đoàn được tự nhiên. Sự gắn bó ấy sẽ là yếu tố quan trọng nâng đỡ và đồng hành với đôi bạn trong cuộc sống hạnh phúc.

6. Kỳ vọng của Mẹ Hội Thánh
Những cuộc hôn nhân khác đạo bao giờ cũng có nhiều khó khăn, dù vậy Hội Thánh luôn tin tưởng vào ơn Chúa và cầu nguyện cho họ. Hội Thánh tin tưởng ở thiện chí của họ và ước mong rằng “chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1Cr 7,14). “Thật là một niềm vui lớn cho bên Công giáo và cho Hội Thánh nếu “việc thánh hoá này” đưa người không Công giáo tự nguyện đón nhận đức tin Công giáo.[5] Chính tình yêu hôn nhân chân thành, việc khiêm tốn và kiên nhẫn thực thi những nhân đức gia đình và siêng năng cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người không có đạo được ơn làm con Chúa[6].”

Lời nhắc nhớ của cha xứ:
Muốn người không cùng tôn giáo tôn trọng và tạo điều kiện cho mình thực hành niềm tin tôn giáo của mình, các bạn phải chứng tỏ:

 - Bằng cuộc sống chứng nhân trung thành của đức ái Kitô giáo. Phía Công Giáo phải giúp người bạn đời của mình nhận ra rằng niềm tin Công Giáo đang mang đến cho họ một người bạn đời tuyệt vời nhất. Phía Công Giáo trong nghĩa này phải biến mình nên quà tặng của Chúa và Giáo Hội cho họ.

 - Phía Công Giáo phải tôn trọng và giúp đỡ trong khả năng có thể để bạn đời của mình sống và thực hành niềm tin của họ. Cũng khiêm tốn để biết nhận ra những nét đẹp trong niềm tin của họ trước khi muốn họ nhận ra và tôn trọng những nét đẹp trong niềm tin Công Giáo.

- Khuôn vàng thước ngọc của Tin Mừng có thể áp dụng ở đây: “điều gì bạn muốn người khác làm cho mình, trước hết hãy làm cho họ”.

- Phía Công Giáo sẽ được coi là thành công khi người bạn đời của mình trở thành người giúp đỡ và tạo điều kiện để bạn sống niềm tin Công Giáo.

GHI NHỚ:
1. H. Tôn giáo có vai trò nào trong đời sống hôn nhân và gia đình?
T. Tôn giáo có một vai trò rất quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình, vì ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách xử sự và việc giáo dục con cái.

2. H. Hội Thánh có cho phép chuẩn để kết hôn với người ngoài Công giáo không?
T. Có, với những điều kiện sau đây:
- Một là hai người phải hiểu biết và chấp nhận những mục đích và đặc tính của hôn nhân.
- Hai là bên Công giáo phải cam kết giữ đức tin của mình, bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo.
- Ba là phải cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy.

3. H. Khi kết hôn với người khác đạo, người tín hữu có thể gặp những nguy hiểm nào?
T. Người tín hữu có thể gặp những nguy hiểm này:
- Một là dễ trở nên nguội lạnh và bỏ đạo.
- Hai là gia đình thường xuyên bất đồng và dễ tan vỡ.

4. H. Nếu lập gia đình với người khác đạo, bên Công giáo cần phải sống thế nào?
T. Nếu lập gia đình với người khác đạo, bên Công giáo cần phải sống tốt đạo và trở nên chứng nhân Tin mừng cho con cái và người bạn đời.

GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Vì sao Hội Thánh quan tâm đặc biệt đến những cuộc hôn nhân khác đạo?
2. Theo anh chị hôn nhân hỗn hợp đem đến những thuận lợi và bất lợi nào?
3. Anh chị có những người bạn nào lập gia đình với người khác đạo không? Kinh nghiệm của họ thế nào?

CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, chúng con tin thật rằng mọi người đều được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã mời gọi chúng con bước vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, xin giúp chúng con khao khát xây dựng gia đình chúng con theo thánh ý Chúa. Xin nâng đỡ và củng cố tình yêu đầy những giới hạn của chúng con. Chúng con cầu nguyện cách riêng cho những anh chị lập gia đình với người không cùng một đức tin với mình. Xin gửi Thánh Thần Tình yêu đến liên kết họ, giúp họ vượt qua những khác biệt để họ có thể trở thành không những là người bạn đời, mà còn là người bạn đạo của nhau. Amen


[1] x. GL 1124
[2] x. GL 1086
[3] GL 1125; x. GLHT 1635
[4] GLHT 1634
[5] x. 1Cr 7,16
[6] GLHT 1637



GIÁO LÝ HÔN NHÂN - BÀI 3

Giáo xứ Thánh Linh

Bài 3: Giáo luật về Bí tích Hôn phối

“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).

Hôn nhân không chỉ liên quan đến hai vợ chồng mà còn liên quan đến một phạm vi rộng lớn hơn, từ họ hàng hai bên cho đến xã hội, bởi vì gia đình là tế bào căn bản của xã hội. Gia đình có êm ấm thì xã hội mới ổn định và bền vững.

Vì mang tính xã hội, nên hôn nhân cần được pháp luật chứng nhận và bảo vệ. Tại Việt Nam, về mặt dân sự ta có luật “Hôn nhân và Gia đình” được Quốc Hội thông qua ngày 09.6.2000, gồm 110 điều. Còn về mặt tôn giáo, trong bộ luật của Hội Thánh, được gọi là giáo luật, ban hành ngày 25.01.1983, có 111 khoản về hôn nhân.

Luật của Hội Thánh chỉ ràng buộc đối với người Công giáo[1]. Khi đưa ra những luật này, Hội Thánh nhắm giúp con cái mình xây dựng một cuộc sống hôn nhân và gia đình bền vững, hạnh phúc, thánh thiện, thể hiện ơn gọi hôn nhân và gia đình như ý Thiên Chúa muốn.

1. Điều kiện cử hành bí tích Hôn phối

Để Bí tích Hôn phối thành sự, cần những điều kiện sau:
- Phải là một người nam và một người nữ, đã rửa tội[2].
- Hai người có tự do để kết hôn. Tự do ở đây có nghĩa là:
. Không bị ép buộc
. Không bị ngăn trở bởi luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh[3].
- Phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn của mình.
- Cử hành theo thể thức của Hội Thánh[4].

Giải thích của cha xứ:
Giáo Hội Công Giáo không chấp nhận và không công nhận hôn nhân đồng tính. Chỉ có hôn nhân giữa một người nam và một người nữ đã được rửa tội mới được công nhận là bí tích và như vậy hôn nhân giữa một người đã được rửa tội và một người chưa rửa tội không được coi là một bí tích.

Phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn của đương sự cách công khai trước mặt cộng đoàn Hội Thánh trong một nghi lễ được Giáo Hội công nhận hay theo thể thức của Hội Thánh. Thường trước mặt thừa tác viên hợp luật (Phó tế, linh mục) và hợp pháp của Giáo Hội (không bị ngăn trở thi hành tác vụ) và hai người làm chứng (hôn phối nếu không có hai người làm chứng sẽ không thành sự) cùng theo những quy định phụng vụ hiện hành của Hội Thánh.

2. Các ngăn trở Hôn phối

Ngăn trở hôn phối là tình trạng hay hoàn cảnh làm cho cuộc hôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp.

Giải thích của cha xứ:
Hôn phối giữa hai người có thể không hợp pháp nhưng vẫn thành sự. Ví dụ, một linh mục A, lấy lý do người thân, có thể cử hành hôn phối cho người thân trong nhà thờ giáo xứ của anh ấy dù những người thân này không thuộc giáo xứ của anh ấy.

Để có thể kết hôn thành sự, cả hai phải trong tình trạng tự do, không bị ngăn trở nào theo luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh. Những ngăn trở thuộc luật tự nhiên dựa trên hôn nhân như một định chế tự nhiên, chúng chi phối mọi người. Những ngăn trở thuộc luật Hội Thánh dựa trên bản chất bí tích của hôn nhân, cũng như trên mối liên hệ của hôn nhân với cộng đồng tín hữu, chỉ chi phối người Công giáo mà thôi.

Các ngăn trở hôn phối gồm có:

2.1. Ngăn trở do chưa đủ tuổi để kết hôn
Để kết hôn thành sự, nam phải đủ 16 tuổi, nữ phải đủ 14 tuổi[5]. Tuy nhiên, Hội Đồng Giám mục của mỗi quốc gia có quyền quy định tuổi cao hơn để kết hôn hợp pháp[6]. Tại Việt Nam, nam phải từ 20 tuổi trở lên, nữ 18 tuổi trở lên, theo như Luật Hôn nhân và Gia đình điều 9.

2.2. Ngăn trở do bất lực
Một trong hai người trước khi kết hôn đã mắc chứng bất lực, không thể chữa trị được[7]. Bất lực khác với vô sinh. Bất lực là không thể giao hợp. Còn vô sinh là không thể có con. Việc vô sinh không phải là một ngăn trở hôn phối[8].

2.3. Ngăn trở do đã kết hôn
Một trong hai người còn bị ràng buộc bởi dây Hôn phối trước[9]. Ngăn trở này chỉ chấm dứt khi:
- Người phối ngẫu chết[10]
- Hôn nhân thành sự nhưng chưa hoàn hợp, được Đức Giáo Hoàng đoạn tiêu vì lý do chính đáng[11] (cha xứ đã giải thích trong bài số 2 – anh chị coi lại).
- Hôn nhân giữa hai người chưa rửa tội được đoạn tiêu do đặc ân Phaolô nhằm bảo vệ đức tin của bên lãnh nhận phép Rửa tội, do chính sự kiện là bên được rửa tội lập hôn nhân mới, và bên không được rửa tội muốn phân ly[12].

Giải thích của cha xứ:
Ví dụ anh A muốn kết hôn với chị B – một người chưa phải là Kitô hữu, đã kết hôn với anh C – cũng là một người chưa rửa tội như chị. Chị B và anh C đã ly dị. Bây giờ chị B muốn rửa tội để kết hôn với anh A. Trong trường hợp này, đặc ân thánh Phaolô được áp dụng cho chị B. Chị B sẽ được kết hôn nếu anh C không chấp nhận chung sống hòa bình khi chị B trở thành người Công Giáo. Do điều này, hôn nhân giữa chị B và anh C sẽ được giải. (Chú ý dù họ đã ly dị nhưng Giáo Hội Công Giáo không nhìn nhận ly dị của tòa án xã hội).

Nếu chị B không chịu trở lại (rửa tội) khi lấy anh A, thì Giáo Hội không thể chuẩn trong trường hợp này vì Giáo Hội nhìn nhận mối dây ràng buộc của hôn nhân tự nhiên nhưng không nhìn nhận giá trị của ly dị tòa đời, do vậy, dù chị B đã ly dị anh C ở tòa đời, ngăn trở hôn nhân giữa chị B và anh C vẫn còn tồn tại.

2.4. Ngăn trở do khác biệt tôn giáo
Một bên Công giáo, còn một bên không Công giáo[13].

2.5. Ngăn trở do chức thánh
Những người đã chịu chức thánh không thể kết hôn thành sự[14]. Những người có chức thánh gồm: Giám mục, linh mục và phó tế. 

2.6. Ngăn trở do khấn dòng
Những người chính thức thuộc về một dòng tu bằng lời khấn công khai sẽ vĩnh viễn sống khiết tịnh (hay còn gọi là khấn trọn đời, vĩnh khấn) không thể kết hôn thành sự[15].

2.7. Ngăn trở do bắt cóc
Hôn nhân bất thành đối với trường hợp bắt cóc người nữ để lấy cô ta[16].

Giải thích của cha xứ:
Anh A muốn kết hôn với chị B nhưng chị B từ chối. Anh A do đó bắt cóc chị B và buộc chị B phải kết hôn với anh A. Hôn nhân này vô hiệu vì chị B không có tự do. Nếu trong thời gian bắt cóc, chị B tự nguyện lấy anh A, khi ấy, hôn nhân của họ vẫn thành sự.

2.8. Ngăn trở do tội mưu sát phối ngẫu
- Giết vợ hay giết chồng mình (kể cả âm mưu hoặc đồng lõa) để lấy người khác.
- Giết vợ hay giết chồng của người phối ngẫu (kể cả âm mưu hoặc đồng lõa) để lấy họ[17].

Giải thích của cha xứ:
Anh C và cô B muốn kết hôn với nhau nhưng do cô B đã có chồng là anh A. Để hợp pháp, anh C và cô B đã âm mưu giết anh A. Hôn nhân giữa cô B và anh C không thành sự.

2.9. Ngăn trở do họ máu (huyết tộc)
- Theo hàng dọc: hôn nhân bất thành giữa mọi người trong họ máu hàng dọc[18].
- Theo hàng ngang: hôn nhân bất thành cho tới hết 4 bậc[19].

Giải thích của cha xứ:
Giáo luật 1983 dùng từ bậc thay vì “đời” như trước đây. Cách tính dễ nhất là bỏ gốc đi.

Ví dụ: Ông A sinh ra 4 đứa con là B,C,D,E. Bốn người con của B,C,D,E lần lượt là B1;C1;D1;E1 và cháu là B2,C2,D2 và E2.

Theo cách tính bậc của giáo luât mới là B1 và C1 là bậc 4; B2 với C2 là bậc 6. Nói dễ hiểu cháu chú và cháu bác là 6 bậc.

2.10. Ngăn trở do họ kết bạn
Hôn nhân thuộc theo hàng dọc dù ở cấp nào cũng tiêu huỷ hôn phối[20]. Ví dụ, giữa cha chồng với con dâu, chàng rể với mẹ vợ. Tuy nhiên, theo hàng ngang thì không bị ngăn trở. Ví dụ: anh chồng có thể lấy em dâu, vợ chết có thể lấy em vợ.

2.11. Ngăn trở do công hạnh
Hay còn gọi là ngăn trở liêm sỉ. Ngăn trở này phát sinh do cuộc hôn phối bất thành sau khi đã có sống chung, hoặc do tư hôn công nhiên hay công khai. Ngăn trở này tiêu hủy hôn nhân giữa người nam với các người họ máu của người nữ bậc một hàng dọc, và ngược lại[21]. Chẳng hạn: nếu anh X đã từng chung chạ với cô Y, thì không thể lấy mẹ hoặc con riêng của cô Y; và cô Y cũng không thể lấy cha hoặc con riêng của anh X.

2.12. Ngăn trở do pháp tộc
Những người có họ hàng thân thuộc pháp lý do nghĩa dưỡng, ở hàng dọc hoặc hai bậc hàng ngang, không thể kết hôn với nhau thành sự[22]. Ngăn trở này làm hôn nhân bất thành giữa: con nuôi với cha mẹ nuôi; con nuôi với cha mẹ hoặc con cháu ruột của cha mẹ nuôi; hai con nuôi của cùng một cha mẹ nuôi (việc nhận con nuôi phải công khai và có thủ tục pháp lý chứ không phải cách riêng tư âm thầm).

3. Chuẩn ngăn trở
Nếu mắc phải một trong các ngăn trở trên, dù hai người có lấy nhau, hôn phối vẫn không thành. Đó chỉ là một sự chung chạ bất hợp pháp mà thôi. Để kết hôn thành sự và hợp pháp, cần phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, không phải ngăn trở nào Hội Thánh cũng có thể miễn chuẩn được.

Đối với những ngăn trở thuộc luật tự nhiên, Hội Thánh không có quyền miễn chuẩn. Đó là những ngăn trở:
- Do bất lực[23].
- Do đã kết hôn[24].
- Do có họ máu hàng dọc[25].
- Do có họ máu hai bậc hàng ngang[26].

Đối với những ngăn trở chỉ do luật Hội Thánh mà thôi thì Hội Thánh có quyền miễn chuẩn, và khi được miễn chuẩn thì cuộc hôn nhân thành sự.

Các ngăn trở Hội Thánh có thể miễn chuẩn khi có lý do chính đáng:
- Về tuổi tối thiểu.
- Về họ máu ba bậc trở đi theo hàng ngang: bà con và anh em họ.
- Về họ kết bạn.
- Về tội ác (tội mưu sát phối ngẫu)
- Về chức thánh.
- Về lời khấn.
- Về công hạnh.
- Về khác tôn giáo.

Riêng đối với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, sở dĩ Hội Thánh dè dặt và thận trọng chỉ vì yêu thương con cái. Muốn gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải hoà hợp. Tín ngưỡng là một vấn đề quan trọng. Nếu có sự khác biệt thì dễ xảy ra xung khắc, đe doạ sự hoà hợp, nhất là đối với việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, cũng vì tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán. Hội Thánh hy vọng lòng đạo đức của bên này sẽ thánh hoá bên kia[27].

Giải thích của cha xứ:
Sự hòa hợp trong đức tin quan trọng bởi là sự hòa hợp trong chiều sâu của tâm hồn. Nó cũng là sự hòa hợp trong những chọn lựa về lối sống, về những giá trị luân lý. Trong việc giáo dục con cái, việc khác đức tin giữa hai người phối ngẫu dễ dẫn đến xung đột trong việc chọn lựa phương thế, trường lớp giáo dục con cái… 

4. Sự ưng thuận kết hôn
Hội Thánh coi việc hai người bày tỏ sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết “làm nên hôn nhân”. Thiếu sự ưng thuận này thì hôn nhân không thành[28].

“Sự ưng thuận kết hôn là hành vi nhân linh - nghĩa là hành vi của con người có ý thức và tự do -, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau: “Anh nhận em làm vợ”; “Em nhận anh làm chồng”. Sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt” (x. St 2,24; Mc 10,8; Ep 5,31)[29]”. Bởi vậy, “sự ưng thuận này phải là một hành vi ý chí của mỗi bên kết hôn, không bị cưỡng bức vì bạo lực hay quá sợ hãi do một nguyên cớ bên ngoài. Không một quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Nếu thiếu sự tự do này, cuộc hôn nhân sẽ không thành[30]”.

Thiếu sự tự do ưng thuận thực sự giữa hai bên, khi:
- Không có đủ trí khôn[31].
- Thiếu trầm trọng trí phán đoán về những quyền lợi và nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân[32].
- Vì bị tâm thần không thể đảm nhận những nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân[33].
- Vô tri: Không biết hôn nhân là gì[34].
- Lầm lẫn về người, hoặc về phẩm cách của người phối ngẫu[35].
- Lường gạt[36]. Khi chủ ý lừa dối về sự có hay không một phẩm cách của mình, nhằm đạt được sự ưng thuận của bên kia. Phẩm cách này quan trọng đến nỗi sau này khi khám phá ra thì đời sống hôn nhân có thể bị tác hại trầm trọng (Cha xứ giải thích: người phối ngẫu lừa dối người kia về những tật xấu như bài bạc, hút sách, truy nã đặc biệt…).
- Giả vờ ưng thuận, nhưng thực sự không muốn[37].
- Ưng thuận với điều kiện về tương lai. Đặt điều kiện về tương lai thì hôn nhân bất thành[38] (Cha xứ giải thích: ví dụ anh A lấy chị B với điều kiện chị B phải có bằng bác sĩ sau 4 năm cưới).
- Ưng thuận vì bạo lực hoặc vì sợ hãi[39].
* Bạo lực: nếu bị người khác dùng sức mạnh để cưỡng ép ưng thuận kết hôn thì sự ưng thuận đó vô hiệu.
* Sợ hãi: sự sợ hãi có thể làm cho hôn nhân vô hiệu khi hội đủ 3 đặc tính sau:
a. Sợ hãi có tính cách trầm trọng chứ không phải vu vơ.
b. Sợ hãi do nguyên nhân ngoại tại, nghĩa là do một người khác gây ra chứ không phải do chính đương sự.
c. Sự sợ hãi có tính cách tất định, nghĩa là không có cách nào khác để thoát khỏi sự đe dọa ngoại trừ ưng thuận kết hôn.
(Cha xứ giải thích: cô A - một cô gái hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ - bị ép buộc với sự đe dọa từ cha mẹ cô ấy “nếu không cưới anh X, sẽ bị đuổi ra khỏi nhà").

5. Thể thức hôn phối
Để Hôn nhân thành sự, đôi hôn phối cần phải cử hành theo thể thức của Hội Thánh: Hôn nhân chỉ thành sự khi được kết ước trước mặt vị chứng hôn có thẩm quyền: hoặc cha xứ, hoặc một linh mục, hay phó tế được một trong hai vị trên ủy quyền, cùng với hai người làm chứng[40].

Linh mục (hay phó tế) chứng giám nghi thức Hôn phối, nhân danh Hội Thánh nhận lời ưng thuận của đôi hôn phối và chúc lành cho họ. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh và của những người làm chứng cho thấy rõ hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh[41].

Ngoài ra, còn phải cử hành tại nhà thờ giáo xứ, nơi một trong hai người kết hôn có chỗ thường trú, hoặc tạm trú một tháng. Nếu muốn cử hành nơi khác, phải có phép của Đấng Bản quyền sở tại hoặc cha xứ.[42]

GHI NHỚ:
1. H. Để Bí tích Hôn phối thành sự phải có những điều kiện nào?
T. Phải có bốn điều kiện này:
- Một là một nam một nữ đã rửa tội.
- Hai là có tự do kết hôn, không bị ép buộc cũng không bị ngăn trở bởi luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh
- Ba là phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn.
- Bốn là cử hành theo thể thức của Hội Thánh.

2. H. Ngăn trở hôn phối là gì?
T. Ngăn trở hôn phối là những hoàn cảnh hoặc trường hợp làm cho cuộc hôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp.

3. H. Có bao nhiêu ngăn trở hôn phối?
T. Có 12 ngăn trở sau đây:
- Một là chưa đủ tuổi kết hôn
- Hai là bất lực, không thể sinh hoạt vợ chồng.
- Ba là còn bị ràng buộc bởi hôn phối trước.
- Bốn là khác tôn giáo.
- Năm là chức thánh.
- Sáu là khấn dòng.
- Bảy là bắt cóc.
- Tám là tội mưu sát phối ngẫu.
- Chín là có họ máu.
- Mười là có họ kết bạn.
- Mười một là công hạnh.
- Mười hai là pháp tộc.

4. H. Khi mắc ngăn trở thì phải làm gì?
T. Phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, có những ngăn trở Hội Thánh cũng không thể miễn chuẩn được, đó là các trường hợp:
- Một là bất lực,
- Hai là còn bị ràng buộc bởi hôn phối trước.
- Ba là có họ máu theo hàng dọc.
- Bốn là có họ máu hai bậc theo hàng ngang.

5. H. Vì sao sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết làm nên hôn nhân?
T. Vì sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt”. Không một quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Thiếu sự tự do này, cuộc hôn nhân sẽ không thành.

6. H. Những trường hợp nào thiếu sự tự do ưng thuận kết hôn?
T. Những trường hợp sau đây:
- Một là không có đủ trí khôn.
- Hai là thiếu trầm trọng trí phán đoán về những quyền lợi và nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân.
- Ba là vì tâm thần không thể đảm nhận những nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân.
- Bốn là vô tri, không biết hôn nhân là gì.
- Năm là lầm lẫn về người, hoặc về phẩm cách của người phối ngẫu.
- Sáu là lường gạt.
- Bảy là giả vờ ưng thuận, nhưng thực sự không muốn.
- Tám là ưng thuận với điều kiện về tương lai.
- Chín là ưng thuận vì bạo lực hoặc vì sợ hãi.

GỢI Ý SUY NGHĨ:
1. Vì sao Hội Thánh lại có những điều luật về Hôn nhân? Đâu là mục đích của những điều luật đó?
2. Vì sao trong việc lập gia đình, Hội Thánh nhấn mạnh khía cạnh tự do ưng thuận?
3. Phải chăng Hội Thánh có thể miễn chuẩn mọi ngăn trở hôn phối? Tại sao?

CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa hằng yêu thương chúng con. Xưa kia Chúa đã ban lề luật cho dân Israel, để giúp họ sống trung thành với giao ước, xứng đáng là dân Chúa. Chúa đã mời gọi chúng con bước vào đời sống hôn nhân và gia đình, để làm chứng cho tình yêu của Chúa, và Chúa đã ban cho chúng con Hội Thánh, để hướng dẫn chúng con. Xin giúp chúng con biết nghe theo lời giáo huấn của Hội Thánh, để cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc như ý Chúa muốn. Amen.


[1] x. GL 11; 1059; 1075 §2
[2] GLHT 1625; x. GL 1055
[3] GLHT 1625
[4] GL 1108
[5] GL 1083 §1
[6] GL 1083 §2; xem thêm GL 1071 §1, 20 và 60; 1072
[7] GL 1084 §1
[8] x. GL 1084 §3
[9] GL 1085 §1
[10] GL 1141
[11] GL 1142
[12] GL 1143
[13] GL 1086; 1124-1125
[14] GL 1087
[15] GL 1088
[16] GL 1089
[17] GL 1090
[18] GL 1091,1; x. Luật HN và GĐ điều 10 §3
[19] GL 1091 § 2
[20] GL 1092
[21] GL 1093
[22] GL 1094
[23] GL 1084
[24] GL 1085; 1141
[25] GL 1078 §3
[26] GL 1078 §3
[27] x. 1 Cr 7,14; GL 1124-1129
[28] GLHT 1626
[29] GLHT 1627; x. GL 1057 §2
[30] GLHT 1628
[31] GL 1095
[32] GL 1095 §2
[33] GL 1095 § 3
[34] GL 1096
[35] GL 1097, 1098
[36] GL 1098
[37] GL 1101
[38] GL 1102
[39] GL 1103
[40] GL 1108
[41] GLHT 1630
[42] GL 1115; 1118